TIN TỨC

Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-11-19 21:43:26
mail facebook google pos stwis
62 lượt xem

NGUYỄN MINH NGỌC

Đội ngũ các nhà thơ xuất thân từ nhà giáo từ khắp mọi miền quê đất nước khá đông đảo. Riêng ở Sài Gòn, có thể kể đến các chị: Đặng Nguyệt Anh, Tôn Nữ Thu Thuỷ, Nguyễn Thị Thanh Long, Huệ Triệu… Nét nổi bật trong thơ của các nhà sư phạm phái đẹp là sự đằm sâu, với nhiều tìm tòi mới mẻ, song vẫn giữ được sự điềm đạm, và đầy trách nhiệm công dân.

Quê gốc ở Hưng Yên, song nhà thơ Huệ Triệu lại chào đời ở Phú Thọ, nơi song thân chị công tác. Tên khai sinh của chị là Triệu Thị Huệ. Năng khiếu văn chương sớm bộc lộ, sau khi đoạt giải Nhì (không có giải Nhất) học sinh giỏi văn toàn quốc, chị được tuyển thẳng vào Trường Đại học Sư phạm Hà Nội. Tốt nghiệp khoa Ngữ văn hệ đặc biệt 5 năm, ra trường, chị có trong tay tấm bằng Đại học và bằng Cao học.

Chuyển vào phương Nam lập nghiệp, thoạt đầu Huệ thử sức nghề báo ở một vài tờ báo lớn tại Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng rồi chị cảm thấy không phù hợp. Dường như từ trong thẳm sâu ký ức, tiếng trống trường với những gương mặt học trò vẫy gọi chị; phấn trắng, bảng đen vẫn khôn nguôi ám ảnh. Thế là chị quyết trở về với bục giảng, đúng chỗ dành cho mình, để truyền đến những tâm hồn học trò trắng trong vẻ đẹp sâu lắng của văn chương. Say nghề, giỏi chuyên môn, cô giáo mau chóng khẳng định chỗ đứng với đồng nghiệp và học trò. Chuyển về Trường THPT chuyên Lê Hồng Phong danh tiếng, nơi thuở trước là ngôi trường mang tên Pétrus Ký cổ kính ở Sài Gòn. Chỉ một năm sau (2006), cô giáo Triệu Thị Huệ được tín nhiệm phân công làm Trưởng bộ môn Văn của trường chuyên này.

Từ những rung cảm văn chương, hiện thực cuộc sống ngồn ngộn đã giúp cô giáo trẻ vừa cầm phấn vừa cầm bút. Dẫu đã bắt đầu sáng tác từ thời sinh viên, nhưng khi trở thành cư dân của thành phố, Huệ Triệu mới cho in tập thơ “Mùa cây thay lá” (Nhà xuất bản Thanh Niên, 2009). Những vần thơ tươi mới vừa xuất hiện được bạn đọc đón nhận và được các nhà thơ lớp trước khích lệ. Một số bài trong tập thơ đầu tay được chắp cánh bởi âm nhạc, đó là “Thời mười sáu tuổi” với nhạc sĩ Lê Minh Hải, rồi “Vắng anh” do nhạc sĩ Võ Công Diên, phổ nhạc… Hai năm sau, Huệ Triệu cho ra mắt thêm tập “Thức một miền xanh”. Vẫn nguồn mạch văn chương ấy nhưng được khơi rộng thêm trong dòng chảy thao thiết khôn cùng.

Nhưng phải đến tập “Cảm thức sông” (Nhà xuất bản Hội Nhà văn, 2014) thì dường như Huệ Triệu đã vượt lên chính mình, cắm một dấu mốc trong hành trình tìm tòi, đổi mới đáng trân trọng. Thơ chị đắm say, tinh tế, đầy nữ tính mà không ra ngoài khuôn phép, mực thước. Với 45 bài, có thể nhặt ra rất nhiều bài hay, câu chữ đắm say, đặc biệt là tứ thơ của Huệ Triệu biến hoá, sâu lắng và đầy bất ngờ. Dịu dàng và nhỏ nhẹ, chị viết về hoa, về cỏ, về miền Trung du và người mẹ thân yêu của mình.

“Tim tím hoa xoan

 Bời bời gạo đỏ

Cải sắc vàng như nắng rắc bên sông  

Mang mang gió một thời thiếu nữ

 Miếng trầu người

 Cay đắng

 Ngọt thơm”

(Thưa Mẹ)

Trở về nơi chôn rau cắt rốn, ra thăm nơi yên nghỉ của đấng sinh thành, nhìn cảnh nhớ người, chị nghẹn lòng.

“Lá rơi hay tiếng vô thường

Nhoà sương bóng mẹ cuối đường liêu xiêu

… Gió đi lạc phía chân trời

Con đi lạc giữa muôn lời nhân gian”

(Nhớ mẹ mùa đông)

Với dòng sông quê hương, chị dành những câu thơ đầy ấm áp. Không phải ngẫu nhiên mà chùm thơ này được chọn làm đề tựa cho cả tập.

“Rưng rức nắng cải vàng hoa nở muộn

Mỗi đời sông như thể mỗi đời người

Phía con nước hạt phù sa đắp đổi

Phía đôi bờ thắc thỏm những buồn vui”

(Cảm thức sông)

Dường như ăng ten thi sĩ luôn trải rộng, nên hễ tới miền đất nào, từ Quảng Trị, ra Phú Quốc, rồi sang cả Luông Pha Băng (Lào)… Huệ Triệu đều có những cảm nhận của riêng mình. Ra quần đảo “Bão Tố”, chị có cả chùm thơ.

“Từ khơi xa

Những vòng hoa

Xoay trên

                    ến sóng”

(Vọng sóng)

Thay lời cho nhiều người chưa có may mắn được ra thăm quần đảo, chị thổn thức, suy ngẫm:

“Mỗi hạt cát Trường Sa

Đã trở thành máu thịt

Những tên đảo, tên người

Viết hoa thành Tổ quốc!”.

(Viết ở Trường Sa)

Có thể nói “Hương nhu ở đảo” là một trong những bài tác giả sử dụng thể thơ tự do, đậm màu thương nhớ. Như là văn xuôi mà vẫn mềm mại, rất thơ.

“Gió bạt gió tìm lá mềm như bàn tay vuốt nhẹ tóc em ngày anh ra đảo. Nỗi nhớ đất liền có hương tóc ủ hương cây.

… Những vạt hương nhu bời bời mong bàn tay người hái”.

Thơ của Huệ Triệu không dài dòng. Chị ưa thích lối thơ ngắn với cấu tứ đầy bất ngờ. Nhịp điệu câu thơ nhanh, dồn dập, lạ.

“Bến mộng/ Bờ mê/ Sông chiều/ Cạn gió

Một đời/ Quên nhớ/ Câu thề/ Đắm rêu!”

(Bước chữ)

Hay như khi chị viết: “Cầm mưa vay nắng trả ngày” (Viết cho mình). Trong bài “Cúc quỳ muộn nở”, Huệ Triệu có những câu thật hay, thật tài hoa.

“Em chạy ngược dốc quỳ phơ phất gió

Áo lơi cài vừa kịp lúc sương che

Rồi khi cảm xúc dâng trào, chị cũng không ngại ngần bộc bạch:

“Quắt lòng

Nỗi nhớ

Tuổi thơ soi một bóng lau gầy”

(Biền biệt Trung du)

Ngôn ngữ thơ Huệ Triệu luôn có sự tìm tòi, không dễ dãi, cho dẫu về những điều người đi trước đã viết. Lối diễn đạt tránh lối mòn đã tạo được nét thẩm mỹ rất riêng. Đọc những câu thơ mang âm hưởng Đường thi, sẽ thấy tác giả xử lý tỉnh táo biết nhường nào.

“Chiều Phú Quốc gió mềm tay khách lạ

Bến Hàm Ninh, biển hát dưới chân ghềnh”

(Phú Quốc - ngày em đến)

Và thật bất ngờ khi Huệ Triệu triết lý, nhẹ nhàng thôi mà vẫn thấm thía, khiến người đọc không khỏi giật mình.

“Tiếng chim trong lồng khát trời rộng

Con người nhoài về bóng râm, tầng lá vươn về ánh sáng

Có gì đáng sợ hơn một nụ hôn lợt lạt

Sông không thác ghềnh sao đáng một đời sông?”.

(Sự vừa phải)

Cùng với tập thơ “Đoản khúc trao mùa”, vừa giảng dạy, cô giáo văn còn mở sang cả địa hạt lý luận phê bình. Ấy là những bài viết được chọn vào tập “Tìm trong bóng chữ” sẽ trình làng nay mai. Năm 2023, Huệ Triệu đã thử sức ở thể loại trường ca. Tập “Người về trong hương” thể hiện miền xúc cảm thắm thiết và dào dạt lắng sâu trước nỗi đau mất mát lớn của cuộc đời.

Mảng thơ tình, rồi thơ lục bát của chị, đều mang dấu ấn rất riêng. Tập “Thơ tình Huệ Triệu - Trần Mai Hường” (2015) rồi tập “Lục bát Đặng Nguyệt Anh - Huệ Triệu - Trần Mai Hường” (2019) đều do Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành.

Một chặng đường thi ca của Huệ Triệu không chỉ được bạn đọc, nhất là người yêu thơ mến mộ và trân trọng, mà thơ chị được chọn đưa vào sách giáo khoa bậc tiểu học (Bộ kết nối). Ấy là các bài “Thu về” (lớp 1), “Cảm xúc Trường Sa” (lớp 4), “Thế giới trong trang sách” (lớp 5). Đó là một vinh dự không hề nhỏ.

Là một Thạc sĩ Ngữ văn có thâm niên trên bục giảng, được đồng nghiệp quý và học trò yêu mến, kính trọng, chị đứng chân trong Ban chấp hành Hội nghiên cứu và giảng dạy Thành phố Hồ Chí Minh. Từ danh hiệu “Nhà giáo tiêu biểu” của Quận 5 và Giải thưởng Võ Trường Toản (2019), chị được Nhà nước vinh danh “Nhà giáo Ưu tú” năm 2020. Ấy là kết quả xứng đáng của lao động sáng tạo và khát vọng toả sáng. Rõ là nghề không phụ người!

Với thành tựu sáng tác được ghi nhận qua các giải thưởng thơ, năm 2009, Huệ Triệu trở thành Hội viên Hội Nhà văn Thành phố Hồ Chí Minh. Và bốn năm sau, chị đường hoàng gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam.

Giờ đây, trở về với cuộc sống đời thường, nữ sĩ vẫn không ngừng vun bồi hồn thơ lai láng và sáng tác đều đặn. Với nghề giáo, chị vẫn tiếp tục gặp gỡ học trò, trao truyền cảm thụ văn chương, góp phần ủ bếp than hồng đượm cho tương lai. Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm