TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI

Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-11-15 22:46:45
mail facebook google pos stwis
195 lượt xem

ĐẶNG THỊ THÁI HÀ

Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.

1. Văn học dịch và những gợi mở về kĩ thuật viết

Rất nhiều tên tuổi lừng lẫy của dòng văn học tinh hoa trên thế giới (cả kinh điển lẫn đương đại) đã xuất hiện trong không gian văn học dịch Việt Nam giai đoạn này, trong đó có thể kể tới: Marcel Proust, Franz Kafka, Milan Kundera, Gunter Grass, Orhan Pamuk, Cao Hành Kiện… và nhiều tác giả nữ nổi bật như Toni Morrison, Margaret Atwood… Việc dịch thêm các tác phẩm kinh điển trong quá khứ và cập nhật các tác phẩm được giải thưởng lớn trên thế giới theo từng năm vừa tạo ra một áp lực đối trọng, buộc các tác giả Việt Nam phải có những chuyển dịch về tư tưởng và bút pháp, vừa cung cấp những gợi dẫn trong thực hành sáng tác. Chẳng hạn, tính phi lí trong truyện của Kafka, thủ pháp dòng ý thức trong tác phẩm của Marcel Proust, William Faulkner, Cao Hành Kiện… có lẽ là những lối viết đi vào nhiều nhất trong các sáng tác thuộc dòng văn học đặc tuyển ở Việt Nam.

Văn học Nga tiếp tục được dịch. Nếu ở các giai đoạn trước đó, các tác phẩm được dịch chủ yếu thuộc mảng văn học xã hội chủ nghĩa thì đến hiện tại, tác phẩm của một loạt các tác giả Nga hải ngoại nổi tiếng được chọn dịch, trong đó nhiều nhất có lẽ là Vladimir Nabokov với một loạt các ấn bản liên tiếp như LolitaTiếng cười trong bóng tốiMỹ nhân NgaPhòng thủ Luzhin… Bên cạnh đó, có thể kể tới Mikhail Bulgacov với Những quả trứng định mệnhNghệ nhân và Margarita; Ivan Bunin với Quý ông từ San Francisco đếnNhững lối đi dưới hàng cây tăm tối… Việc dịch các tác phẩm văn học Nga hải ngoại đem đến cho không khí thưởng thức một cảm giác vừa quen thuộc, vừa mới lạ. Nó “tái định hình” một hình dung khác về văn chương Nga, thoát khỏi những mô thức quen thuộc kiểu “định hướng xã hội chủ nghĩa”, đồng thời đưa lại cho người đọc nhiều trải nghiệm mới và đa dạng về lối viết.

Bên cạnh đó, có lẽ cần nhắc tới một mảng quan trọng trong dịch thuật là các tác phẩm lí luận-phê bình văn học. Giai đoạn đầu thế kỉ 21 có lẽ là một trong những thời kì các ấn bản lí thuyết phê bình văn chương của nhiều trường phái khác nhau được dịch nhiều nhất, phong phú và đa dạng nhất. Động thái dịch thuật này, đương nhiên, có những tác động và ảnh hưởng nhất định đến giới cầm bút ở Việt Nam, đôi khi gắn với những bước chuyển rõ nét trong lối viết và bút pháp của các thế hệ nhà văn. Trước hết, có thể kể tới Nghệ thuật như là thủ pháp: Lí thuyết Chủ nghĩa hình thức Nga của Roman Jakobson, được dịch và xuất bản vào năm 2001. Việc dịch công trình lí thuyết Nghệ thuật như là thủ pháp là một hiện tượng dịch quan trọng của dịch lí luận-phê bình giai đoạn này. Nó không chỉ được đón nhận từ phía giới nghiên cứu-phê bình văn học mà còn gây ấn tượng với giới sáng tác, là một trong những lực thúc đẩy nhà văn Việt Nam kiên quyết chối bỏ, vượt thoát những định kiến cũ mèm về văn chương, về trách nhiệm xã hội mà văn chương thường bị “tròng” lên vai từ xưa đến nay, để có thể dấn thân trọn vẹn hơn vào cuộc chơi ngôn ngữ, chơi thủ pháp, vào những sáng tạo theo nguyên tắc “lạ hóa”, trả nghệ thuật về cõi riêng của nó, vừa độc lập, vừa có khả năng gây hấn với sự nhàm chán buồn tẻ của những “cái thường ngày”.

Mikhail Bakhtin, dù đã bắt đầu được dịch từ những năm 1993 với cuốn Những vấn đề thi pháp Đốtxtôiepski, đến giai đoạn này, hai công trình quan trọng nhất của ông được dịch thêm là: Lí luận và thi pháp tiểu thuyếtSáng tác của Francais Rabelais và nền văn hóa dân gian trung cổ và phục hưng. Những ấn bản sách dịch các nghiên cứu của Bakhtin, một lần nữa, không chỉ làm thay đổi cách nhìn của các nhà nghiên cứu phê bình trong việc phân tích các tác phẩm văn chương, mà còn mở ra rất nhiều hướng mới cho sáng tác, đặc biệt là tiểu thuyết. Tính đa thanh, đối thoại được nâng lên thành đặc trưng của tiểu thuyết. Điều này cũng thúc đẩy các nhà văn Việt rời xa dần quỹ đạo của tiếng nói sử thi độc thoại trước đó để hướng tới một cái nhìn đa chiều hơn, một sự pha trộn giọng điệu sống động hơn trong các tác phẩm của mình. Những thi pháp tiểu thuyết quan trọng như giễu nhại, tính không hoàn kết, thì hiện tại chưa hoàn thành… cũng xuất hiện ngày một nhiều hơn trong tiểu thuyết đương đại Việt Nam giai đoạn này. Ngoài ra, có thể kể thêm một số cây bút lí luận tiêu biểu của chủ nghĩa cấu trúc cũng được dịch ở giai đoạn này như Yuri Lotman với Cấu trúc văn bản nghệ thuật; Tzevan Todorov với Thi pháp văn xuôiDẫn luận về văn chương kì ảoVăn chương lâm nguy… Mảng sách dịch này, có thể nói, càng nhấn mạnh việc coi mỗi tác phẩm văn chương như một “công trình kiến trúc” đầy tính nghệ thuật.

Các lí thuyết gia thuộc hướng giải cấu trúc như Roland Barthes và Foucault cũng đã và đang được dịch ở Việt Nam, chẳng hạn có thể kể tới Những huyền thoại của Roland Barthes, Giám sát và trừng phạt – Nguồn gốc nhà tù của Michael Foucault. Công trình của một tác gia giải cấu trúc quan trọng khác là Gilles Deleuze cũng đã được dịch: Kafka – Vì một nền văn học thiểu số. Những văn bản này, cùng với một công trình nền tảng của hậu hiện đại là Hoàn cảnh hậu hiện đại của Jean Francois Lyotard đã đem lại một không khí mới cho bối cảnh văn học đương đại.

 

Ảnh minh họa. Nguồn internet

 

Bên cạnh đó, có thể kể thêm những hướng phê bình văn học khác cũng được dịch và giới thiệu trong giai đoạn này, chẳng hạn xã hội học văn học (với Quy tắc của nghệ thuật: sự sinh thành và cấu trúc của trường văn chương của Pierre Bourdieu), phê bình sinh thái với cuốn Phê bình sinh thái là gì? trong đó tuyển dịch những bài luận của các tác giả kinh điển nhất như Peter Bary, Kate Rigby, Richard Kerridge…; và gần đây hơn cả là phê bình nữ quyền với các công trình dịch tiêu biểu như Lịch sử vú của Marilyn Yalom, Rắc rối giớiCác thuật ngữ then chốt của nghiên cứu giới. Những hướng dịch thuật này, không ít thì nhiều, mài sắc thêm nữa ý thức giới và nữ quyền, ý thức sinh thái và góc nhìn xã hội của những cây bút đương thời, hứa hẹn sẽ đem lại những bước chuyển mới cho văn học Việt.

2. Ảnh hưởng của văn học dịch nhìn từ các ấn phẩm đại chúng

Ngoài dòng sách dịch được tạm phân loại là dòng văn học tinh hoa, thế kỉ 21 thực sự là giai đoạn đánh dấu một sự bùng nổ của việc chuyển ngữ tức thời tất cả những ấn phẩm đang gây “sốt” trên thế giới, những cuốn sách được xếp vào hàng “best-seller”, và những tác phẩm thuộc các dòng văn học đại chúng đang càng ngày càng có thêm lượng độc giả đông đảo, đặc biệt là thế hệ trẻ. Văn học ngôn tình Trung Quốc, các thể loại du kí, trinh thám, giả tưởng, fantasy là các thể loại có được thành công ấy. Chính sự ồ ạt của thị trường sách dịch này sẽ đưa lại sự bung nở trong sáng tác của bản thân các tác giả trong nước để vừa như một sự hồi ứng, vừa như một nỗ lực cất lên tiếng nói của riêng mình.

Dù vậy, trước khi đi vào những thể loại đại chúng này, có lẽ nên bắt đầu bằng một trường hợp nằm ở đường biên giao thoa giữa tinh hoa và đại chúng là Murakami Haruki. Tác phẩm đầu tiên của Murakami được dịch sang tiếng Việt là Rừng Na Uy. Ngay sau khi cuốn sách này ra đời và tạo được cơn sốt trong công chúng đón nhận tại Việt Nam, liên tục các tác phẩm khác của ông được dịch và xuất bản: Biên niên kí chim vặn dây cótPhía nam biên giới, phía tây mặt trờiKafka bên bờ biển… Với Murakami, độc giả Việt và độc giả thế giới dường như được đem tới một luồng gió mới trong hình dung về đất nước mặt trời mọc, bứt thoát khỏi nỗi bi cảm vốn được mặc định là một phần tất yếu của Nhật Bản. Việc các tác phẩm của Murakami trở thành hiện tượng thống lĩnh thị trường sách dịch Việt không những cho thấy sự xuất hiện của một lớp độc giả mới đã sẵn sàng đón nhận các giá trị mới đậm cảm quan phương Tây, mà chắc chắn đưa lại cả những tác động (dù có ý thức hay không ý thức) tới những cây bút mới đương thời. Cơn sốt Rừng Na Uy có khả năng cao đã khơi mở một cái nhìn phóng khoáng, nhưng cũng đa chiều hơn về tính dục ở các cây bút Việt trẻ. “Sex” không chỉ còn là tiếng nói bản năng của con người, mà còn là một cách để phơi bày nỗi cô đơn bản thể và niềm khát khao kết nối của một thế hệ hoang mang mất niềm tin, mất gắn kết với quá khứ.

Từ góc nhìn đại chúng, truyện tình cảm phương Tây hay truyện ngôn tình Trung Quốc là một trong những mảng được dịch nhiều nhất (cả chính thống và online), cũng có một đời sống sôi động thực sự trong ngành xuất bản phát hành và để lại những dấu ấn đậm nét trong sáng tác của các nhà văn Việt. Về truyện tình cảm phương Tây, không thể không kể tới Marc Levy, một nhà văn Pháp. Tác phẩm của ông được dịch khá nhiều ở Việt Nam, gây dựng được một lượng fan hùng hậu, và là một trong những tác giả nước ngoài thuộc hàng best-seller. Có thể dẫn ra một số tiểu thuyết của Marc Levy được dịch như Và nếu như chuyện này là có thậtKiếp sau, Em ở đâu… Kể từ 2006, sau khi bản dịch Xin lỗi em chỉ là con đĩ của Tào Đình do Trang Hạ dịch được xuất bản, một cơn lốc đọc và dịch truyện ngôn tình được khởi xướng, và càng ngày càng mạnh mẽ hơn song song với tốc độ phổ cập chóng mặt của mạng internet. Dấu ấn của thể loại truyện tình cảm (hay ngôn tình theo cách gọi của Trung Quốc), không khó để nhận ra, khá rõ nét ở các tác giả trẻ Việt giai đoạn này như Iris Cao, Hamlet Trương, Anh Khang, Tuệ Nhi, Gào, Phan Ý Yên… Không chỉ thế, khi các thể loại như đam mĩ, bách hợp trở nên quen thuộc với độc giả Việt, các tác phẩm về đề tài đồng tính như Dị bản của Keng, Cây rắn lục của Vũ Đình Giang, Thành phố không lạc loài của Phạm Thành Trung (Lê Anh Hoài chấp bút), Lạc giới của Thủy Anna, Đời Call Boy của Nguyễn Ngọc Thạch… lần lượt xuất hiện và thu hút được sự quan tâm của bạn đọc.

Thêm một điểm đáng chú ý có thể thấy trong văn học đại chúng giai đoạn đầu thế kỉ 21 là sự nở rộ về thể loại du kí của các cây bút nữ. Những tác phẩm du kí nữ thuộc hàng best-seller của cả phương Đông và phương Tây được dịch trong giai đoạn này như Muôn dặm không mây của Tôn Thư Vân, Đảo tường vi của An Ni Bảo Bối, Ăn, Cầu nguyện và Yêu của Alizabeth Gilbert cũng có thể được nhìn nhận như một “cú hích” góp phần khuyến khích và thúc đẩy một thế hệ nữ trẻ trung lên đường, xê dịch và viết về hành trình xê dịch của chính mình. Những chuyến đi và những ghi chép này ít nhiều đã là nguồn cảm hứng cho cây bút Việt. Nguyễn Chí Linh – tác giả cuốn du kí Trên con đường tơ lụa Nam Á chia sẻ, tác phẩm này được viết từ niềm say mê khi đọc Muôn dặm không mây của Tôn Thư Vân.Có thể kể tên rất nhiều tác giả nữ đã làm nên sự nổi dậy của một dòng du kí Việt Nam giai đoạn này như Dương Thụy, Nguyễn Phương Mai, Trang Hạ, Phan Việt, Huyền Chip, Uyên Nguyên, Trang Nguyễn... Hình ảnh Trang Hạ nằm lên chiếc xe máy hầm hố cùng tuyên bố “Đời ta là những chuyến xe” được đăng công khai trên blog cá nhân có thể được xem như lời tuyên ngôn cho các cây bút du kí nữ thời đại mới, khi dịch chuyển và trải nghiệm du hành không còn là độc quyền của nam giới. Xách ba lô lên và đi của Huyền Chip cũng được đánh giá như một bước khởi đầu quan trọng của trào lưu này. Tây Ban Nha, hành trình không ngôn ngữ của Uyên Nguyên ghi lại những trải nghiệm của một cô gái quyết định kiếm tìm một khóa học tự túc ở trời Tây để từ đó, có cơ hội hòa mình vào một ngôn ngữ mới, một nền văn hóa mới. Trở về nơi hoang dã của Trang Nguyễn lại là hành trình năm năm của một cô gái bé nhỏ nhưng gan dạ ở một nơi chốn vốn được cho là khắc nghiệt nhất: châu Phi. Hành trình này, trước hết, là để thỏa mãn niềm khát khao “thám hiểm”, và thứ nữa, là một hành trình theo đuổi đam mê của một nhà bảo tồn động vật hoang dã. Trở về nơi hoang dã, bởi thế, không chỉ là một chuyến đi thỏa mãn những mong muốn cá nhân mà còn là một lời kêu gọi và thức tỉnh trách nhiệm của con người trước lời kêu cứu của môi trường.

Việc dịch các tác phẩm thuộc thể loại fantasy như Harry Potter và cơn sốt mà nó đưa lại đã có thể xem là một gợi ý và truyền cảm hứng cho dòng truyện này ở Việt Nam, với những tác giả tiêu biểu như Nguyễn Nhật Ánh, Phan Hồn Nhiên, Phạm Bá Diệp. Bộ truyện Chuyện xứ Lang Biang của Nguyễn Nhật Ánh xuất bản lần đầu năm 2004 và được tái bản liên tục trong các năm sau đó là một thành công nổi bật của văn học Việt thuộc thể loại này.

Sự cập nhật những bước tiến mới của thể loại khoa học viễn tưởng cũng là một thành tựu khác mà văn học dịch đem lại trong giai đoạn này. Những năm đầu thế kỉ 21, có thể nói, thực sự là khoảng thời gian rực rỡ về mảng dịch thuật truyện viễn tưởng. Trước đó, trong khoảng từ những năm 1945 cho đến trước 2000, khoa học viễn tưởng đã được dịch, chủ yếu là các tác phẩm của Nga và Liên Xô như Vùng đất Xan-nhi-cốp, Những cuộc phiêu lưu của Xe-muy-en Pinh... Một số các tác phẩm sci-fi kinh điển Âu Mĩ cũng đã được dịch ở Việt Nam trước đó có thể kể thêm như các tác phẩm về chủ đề du hành thời gian như Kẻ vượt thời gian của H.G.Wells hay du hành về không gian như Hai vạn dặm dưới đáy biển của Jules Verne. Nhiều tác phẩm văn chương viễn tưởng về hiểm họa và nguy cơ sinh thái, cũng như những tác phẩm đặt lại vấn đề về mối quan hệ giữa con người với thế giới tự nhiên đã được dịch, chẳng hạn: Mùi Adam của Jean-Christophe Rufin, Bộ ba Kiến – Ngày của kiến – Cách mạng kiến của Bernard Werber. Những tác phẩm như Chuyện người tùy nữ của Margaret Atwood, Chúng tôi của Zevgeny Zamyatin Thế giới mới tươi đẹp của Aldous Huxley, Đấu trường sinh tử của Suzanne Collis… lại đặt vấn đề về sự nguy hiểm của một nhà nước toàn trị dùng công nghệ để kiểm soát người dân một cách phi nhân, bạo lực. Những hình dung viễn tưởng và sự đáng báo động của đạo đức nghề nghiệp, đặc biệt là nghề y được đề cập trong các tác phẩm như Thế giới nghịch của Michael Crichton. Trong câu chuyện này, tác giả tập trung vào những hệ lụy đáng sợ của các tiến bộ về nghiên cứu gen. Thay vì chỉ dừng lại việc ca tụng các đột phá trong nghiên cứu di truyền, Thế giới nghịch đặt ra vấn đề đạo đức khoa học khi con người giành quyền năng sáng tạo của Chúa trời, khi đến cả người chết cũng bị đưa lên bàn đấu giá. Cuối cùng, chủ đề người máy và cuộc khủng hoảng nhân tính khi công nghệ trí tuệ nhân tạo phát triển cực độ cũng được đặt ra trong các tác phẩm viễn tưởng đương thời trên thế giới, mà một trong số đó có thể kể tới là một ấn bản đã được dịch mang tên Người máy có mơ về cừu điện không của Phillip K.Dick. Việc dịch truyện viễn tưởng sang tiếng Việt, như thế, có thể nói, đã có những tác động rõ nét đến các sáng tác thuộc thể loại này ở Việt Nam. Có thể kể đến Máu hiếm, Luật chơi, Hiện thân của nhà văn Phan Hồn Nhiên, Thiên Mã của nhà văn Hà Thủy Nguyên, Nym – Tôi của tương lai của Nguyễn Phi Vân...

Cuối cùng, có lẽ cần nhắc tới sự nở rộ và đa dạng hóa thể loại trinh thám ở Việt Nam – một hiện tượng có lẽ đa phần cũng được đem lại qua con đường dịch thuật. Trước thế kỉ 21, trinh thám cũng là một thể loại đã được dịch khá nhiều ở Việt Nam. Một trong những mảng trinh thám đầu tiên được dịch là tiểu loại trinh thám-phản gián chủ yếu được dịch từ văn học Xô Viết, chẳng hạn: Vụ bắt cóc thế kỉ của Valixi Arđamátxki. Sang đến thế kỉ 21, việc dịch truyện trinh thám trở nên phong phú đa dạng hơn. Các tác giả trinh thám Âu-Mĩ như Dan Brown (với Pháo đài số, Thiên thần và ác quỷ...), Agatha Christie (với Thời khắc định mệnh, Những chiếc đồng hồ kì lạ…) được dịch. Không chỉ thế, các tác giả trinh thám-kinh dị Nhật Bản cũng được dịch như Kiego Higashino, Natsuo Kirino… Theo đó, trinh thám Việt Nam cũng dần bước ra khỏi được mô hình thể loại tình báo-phản gián trước đó (kiểu Ván bài lật ngửa của Trần Bạch Đằng) để hình thành một dòng văn học trinh thám đa dạng trẻ trung hơn với những cái tên như: Di Li, Giản Tư Hải, Bùi Anh Tấn, Kim Tam Long…

Di Li được coi là một hiện tượng mới của truyện trinh thám-kinh dị Việt Nam, trước Trại hoa đỏ, cô đã từng xuất bản hai cuốn sách khá thành công cùng thuộc thể loại này là Tầng thứ nhất và Điệu Valse địa ngục. Với Trại hoa đỏ, Di Li đẩy người đọc vào một cuộc phiêu lưu đầy bất ngờ mới, với vô số những bí ẩn không dễ khám phá, những vướng mắc không thể giải quyết, những âm mưu không dễ gì ngăn chặn. Đây được coi là tác phẩm đặt nền tảng cho kiểu loại trinh thám-thriller của Việt Nam. Ngoài ra có thể kể đến những cây bút trinh thám đương đại tiêu biểu nhất như Giản Tư Hải với Âm mưu thay nãoMật mã ChampaMinh Mạng mật chỉ; Kim Tam Long với Mặt nạ trắngẨn ức trắng, Nguyễn Dương Quỳnh với Thăm thẳm mùa hè... Nếu tác phẩm của Giản Tư Hải xoay quanh những bí mật và tội ác ở tầm vĩ mô, cùng nhịp điệu trần thuật nhanh, kịch tính kiểu Dan Brown thì Kim Tam Long khéo léo kết hợp các yếu tố quỷ ma kinh dị và ý thức đan cài những cuộc chơi cấu trúc. Nếu Nguyễn Dương Quỳnh được mệnh danh là “Di Li thứ hai”, thì Đức Anh dùng những kĩ thuật vô cùng quen thuộc của trinh thám thế giới như kĩ thuật vòng tròn. Mỗi gương mặt, mỗi cây bút lại có một giọng rất riêng, đầy tính hiện đại và mới mẻ của một thế hệ lớn lên trong một thời đại mà mảng văn học dịch trinh thám đang đạt tới thời kì rực rỡ.

Phần viết, như thế, điểm lại một số ảnh hưởng của văn học dịch đến đời sống tiếp nhận, và đặc biệt đến các sáng tác văn chương Việt. Dù ở mảng văn học tinh tuyển hay đại chúng, văn học dịch cũng để lại những dấu ấn đa dạng và nhiều gợi mở. Dịch thuật, bởi vậy, có thể được nhìn như một hướng để mở rộng trường giao tiếp và đối thoại văn chương, từ đó, có những bài học và hướng đi riêng. Những “trải nghiệm đọc khác” mà dịch thuật mang lại đã và sẽ còn nhiều hứa hẹn trong tương lai. Bên cạnh dịch văn học, mảng dịch thuật các công trình lí thuyết-phê bình văn chương cũng được phân tích, trong sự gắn kết với bước chuyển về mô hình và tư duy sáng tác ở bối cảnh Việt Nam. Tác động của dịch thuật, bởi vậy, cần được nhìn từ điểm nhìn tương tác đa chiều, không chỉ với một cộng đồng độc giả đại chúng, với “tầm đón đợi cao” của giới lí luận phê bình, mà cả với chính những người sáng tạo.

Đ.T.T.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Phê bình như là tự truyện – Tiểu luận của Hoàng Đăng Khoa
Tín niệm phê bình văn học cũng là một dạng tự truyện rất gần với tinh thần của các phương pháp phê bình hiện đại như phê bình hiện tượng học, diễn ngôn học văn chương, hay mĩ học tiếp nhận – nơi chủ thể đọc/viết luôn hiện diện trong chính thao tác diễn giải văn bản. Dù vô tình hay hữu ý, mỗi bài phê bình đều là một “tấm gương một chiều” phản chiếu cái tôi nội cảm, cái chủ kiến, thiên kiến của người viết. Qua văn bản phê bình, người ta không chỉ thấy một hiện tượng văn học được phê bình, mà còn thấy cả một con người – đang thực hành sống, đọc, suy tư, tìm gặp tha nhân và bản thể.
Xem thêm
Đọc thơ của một luật sư
Tôi đã được đọc tập thơ đầu tay của Thái Hưng với cái tên rất thơ: ĐI QUA MÙA THU - Nxb Hội Nhà văn 2024; Rồi một số bài in chung trong tập: Bằng lăng tím lối Mễ Trì cùng với nhiều tác giả khác, lại đôi khi thấy thơ anh trên báo, chí, đậm nhất là tờ Thời báo Văn học nghệ thuật giới thiệu chân dung tác giả. Đọc qua, chợt có cảm nhận nhẹ nhàng, song ngẫm ngợi, thấy chất nhân tình thấm đẫm, cuốn hút. Chắc chắn phải là giọng của người đã từng đi qua nhiều mùa thu xao xác lá...
Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm