TIN TỨC
  • Chân dung & Phỏng vấn
  • Nguyễn Trí với ‘Ma lực của cội nguồn’: Một bài học nhân sinh bắt đầu bằng sự tử tế

Nguyễn Trí với ‘Ma lực của cội nguồn’: Một bài học nhân sinh bắt đầu bằng sự tử tế

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
1338 lượt xem

Nguyễn Thị Phụng

“Ma lực của cội nguồn” (NXB. HNV – 2022) là tập tiểu thuyết thứ ba cũng là tập thứ 19 của nhà văn Nguyễn Trí đã xuất bản trong mười năm lại đây, nhiều nhất là truyện ngắn. Đâu dễ gì sự đam mê văn chương từ tuổi thơ đến giờ đã thành hiện thực, cuộc mưu sinh đã nhào nặn quăng quật trong thế cờ người và chính nhờ “có bột mới gột nên hồ”. Dù là truyện ngắn hay tự truyện cô đọng, thì tiểu thuyết với Ma lực của cội nguồn cũng là loại tự sự với dung lượng lớn 320 trang của 8 chương, bao quát cả giai đoạn chuyển mình của xã hội miền Nam trước và sau 1975, có vị trí quan trọng về thời cuộc luôn chịu ảnh hưởng và trách nhiệm của người cầm bút. Những nhân vật nếm trải mùi đời, được cuộc sống dạy dỗ mà trong họ luôn ấm nóng dòng máu yêu thương đầy thần bí làm nên Ma lực của cội nguồn: “Giang hồ gốc Năm Cang nhận ra được làn khói của sự cô đơn từ từ bay ra khỏi mắt Jerry-Quynh. Đúng là vậy. Cái đôi mắt buồn không thể buồn hơn của ông ta từ từ sáng lên màu của hạnh phúc…”*


Bìa tiểu thuyết “Ma lực của cội nguồn” của nhà văn Nguyễn Trí.

Màu hạnh phúc được tô đậm cân bằng lẽ sống về tình yêu chân thật nhất, xoay quanh các nhân vật trong Ma lực của cội nguồn ám ảnh vòng xoay xuôi ngược đầy cung bậc mà con người luôn bị điều khiển bởi từ ma lực của đồng tiền và danh vọng cuốn hút. Trở lại bức tranh xã hội đầy biến động ấy, đứng góc độ nào thì người lao động dù chật vật do hoàn cảnh chưa thoát ra được sự kì thị sắc tộc từ trong chiến tranh và tàn dư xâm lược, mà nạn nhân vẫn là những người đàn bà không tránh khỏi chức năng sinh đẻ, trong thị phi của kẻ sĩ diện vốn có chưa mạnh dạn thoát ra được với chính mình. Kể cả những đứa trẻ khác màu da không từ sự bất hạnh người mẹ bỏ rơi, còn người nuôi chẳng xuất phát từ tấm lòng nhân hậu, chỉ duy nhất với sự ích kỉ của mình. Ngay từ chương I, Nhà văn đã giới thiệu không gian quán “Thiên Thanh là điểm thứ dữ ở kinh tế mới M.”* Gặp gỡ và giao lưu để làm nổi bật nhân vật Năm Cang: “Dân chơi truyền rằng: Dữ ở đây là dữ tiền, dữ vàng chứ không phải dữ tợn đâu nghe- dữ tợn với Năm Cang- quản lý quán- là chết đó”*. Dân chơi có muốn gặp là phải đến lần thứ tư hình ảnh Năm Cang hiện ra “cao áng chừng mét sáu lăm, ria mép và mắt mí lót, lưng gù gù như gấu rừng lại đậm chất phong trần”* Và từ đó Nguyễn Trí khai thác tận cùng tư duy các nhân vật trong Ma lực của cội nguồn đằng sau các bộ quần áo xã hội đa sắc.

Cái phong trần ấy đã gắn bó mối quan hệ giữa Năm Cang và Linda Đen – nhân vật chính, như thế nào. Thời thế có tạo nên anh hùng cưu mang những người bất hạnh, không là nghĩa hiệp mà cũng từ cơ hội đồng tiền cho cuộc mưu sinh. Điểm giống nhau Năm Cang cũng từ đứa trẻ đỏ long lỏng bị vứt ngoài sạp chợ được vợ chồng Nam Trắng hiếm con nghe lời mách đã lượm về nuôi. Dẫu gì Cang được đi học đến lớp năm và biết hái ra tiền từ việc “dẫn gái cho Mỹ: “Ê… Boy…I want a street girl”*. Rồi bất hòa cái gọi là đạo đức giả, rẻ rúng khinh bỉ thường dân ít học là “vong bản” đu theo Mỹ kiếm sống, bắt nguồn xảy ra khi nghe Vinh, em vợ của một Trung sĩ nhất, như châm chọc mỉa mai khi “đọc thơ Đinh Hùng: “Ôi ngơ ngác một lũ người vong bản/ Ta về đây lạ hết các người rồi. Lạ hơi thở lạ đời chung cách sống…”* Việc tranh luận hai chữ “vong bản” từ thằng học 12 đã thua hẳn lí  Năm Cang, ngược lại Năm Cang đã bị những cú đấm mạnh, đã phải về nhà xách súng quyết hơn thua đến cùng ở tuổi 17 đã vào tù từ tháng 2/1973, đồng tiền mau mắn của cha mẹ nuôi quyết định thời gian chỉ bảy tháng tù của Năm Cang lúc bấy giờ. Và bức tranh xã hội cũng phần nào không thể thiếu trong Ma lực của cội nguồn từ chuyện lính đào ngũ trốn quân dịch ở miền Nam là chuyện nhỏ và còn gói gọn một phần câu hát của Trịnh Công Sơn: “Cần sa, nhà thổ, bạch phiến, phòng trà vang tiếng người Việt Nam” qua hình ảnh “Lính tráng nằm gai nếm mật ở núi rừng về được phố sau ăn nhậu cờ bạc thì phải gái gú. Kiếp của họ là “Mày trước tao sau làm kiếp lính, chấp nhận thương đau chỉ một lần”*.

Phải chăng cái bất bình nào đó đã tạo khí khái của một Năm Cang về lòng tự trọng sau cuộc trở về đến khu kinh tế mới, từ hoàn cảnh lưu lạc, Cang gặp được Trâm, làm nên lại một cặp, đồng tiền công sức Năm Cang luôn gặp ngách để quay đi, Cang đã bị lừa trong vụ đánh bạc, lại vào trại giam từ sự cả tin, sự phản bội cho Cang nặng phần nếm trải, và chính nơi nhà tù “Lão già đã dạy Cang thế nào là bình tâm với mọi sự. Tất cả có đó mà không. Cang ngộ ra rằng cuộc đời này bí ẩn như âm dương và mênh mông như biển rộng. Nó cũng rất dễ hiểu và nhỏ xíu xìu xiu.”* Đầy chiêm nghiệm và thử thách trong nhiều nghề như “truy lùng và buôn bán hài cốt Mỹ, chạy giấy tờ cho dân HO và môi giới con lai”* cho những ngày tiếp nối.

Còn bé Đen bị bỏ rơi đến khi đứa bé lớn lên cái tên cũng không có, lại là công cụ lao động, còn bị miệt thị rẻ rúng cả thời thơ ấu của Linda Đen. Vì sao những đứa trẻ khác sắc tộc ra đời không được nâng niu, kể cả người thân trong gia đình, không chỉ là quan niệm lễ giáo ràng buộc mà cái chính là lòng hận thù ghét chiến tranh xâm lược đã đốt cháy nhận thức và tâm hồn, lương tri con người. Thể như có trường hợp Lướt, con gái ông Ngạn- theo cả gia đình rời vườn dừa chỉ vì thường ngày hứng lấy: “…Trên trời, “đầm già” của Cộng hòa ra rả rằng: “Yêu cầu đồng bào đang trong vùng Cộng sản tạm chiếm phải rời khỏi trong vòng… nếu không…”*, đi phụ bếp cho đơn vị Mỹ, có “… Thằng Mỹ gài chốt cửa rồi ôm lấy cô gái tội nghiệp. Nó nói nó yêu bởi cô đẹp. Lướt quá yếu nên không thể cưỡng lại được. Cô đã bị cưỡng bức một cách thô bạo và tồi tệ. Nhưng gã Trung úy yêu cô thật lòng… đến tận nhà xin cô Lướt làm vợ”*. Bị ông Ngạn đuổi ra khỏi nhà,…  Sự kì thị đã ruồng rẫy, ghét luôn những đứa con của kẻ xâm lược, những đứa con lai bất đắc dĩ hiện diện trên mảnh đất miền Nam, dù có tình yêu hay không tình yêu.

Thể như thế cờ đảo ngược, khi diện những đứa con lai được về nước, lại là cơ hội cho mối lái Năm Cang dẫn dắt đầy thận trọng. Đen, là một trong những đứa con lai từ chỗ “Dân lai đen ở xứ mình phải bị sự hắt hủi đến kiệt cùng. Làm việc như con bò, nhưng được đáp trả lại như một con chó, còn bị gọi là mọi đen này nọ”* trở lại là người, được đối xử tử tế, được học biết tiếng mẹ đẻ, học thêm tiếng Anh, đầy đủ khai sinh, có tên trong hộ khẩu, là báu vật hái ra tiền. Ngỡ đơn giản mà rất nhiêu khê, cái lớp áo của chính trực và công lí được bóc tách từ bộ phận cơ sở thủ tục hành chính, cũng là một sự hoán đổi tiền và vàng.

Cuộc trở về với cha của Đen trên đất Mỹ, cũng như những em bé lai khác cũng phải thay tên đổi họ khó khăn, Đen trưởng thành trên cội nguồn của mình, “Đen kể về bà Linda Martin cùng với ông cha trên xe lăn có tên là Jerry Quynh. Và cô lấy tấm ảnh cô Mai rất trẻ đang ngả đầu vào vai Jerry cho mọi người nhận diện. Đen nói, cô biết mẹ là ai khi chưa cầm tấm ảnh. Lúc đi chăn bò ở Hòn Ngang kinh tế mới, nhiều người đã nói cô có nụ cười của Yên”*. Và khi trở lại Việt Nam, điểm chọn là Đà Lạt trong bầu không khí mát dịu nhẹ nhàng cho Đen gặp lại mẹ, mà nhiều cuộc trở về khác góp phần không nhỏ trên vùng đất ngày xưa đầy tổn thương, giờ đàng hoàng tươi đẹp.

Phải nói rằng Nhà văn Nguyễn Trí đâu chỉ là cây bút truyện ngắn thành danh với Giải thưởng của Hội Nhà văn từ tập Bãi vàng, đá quý, trầm hương (NXB Trẻ- 1913) đầu tay cùng nhiều giải thưởng sáng giá khác trong cách dẫn truyện như tâm tình sẻ chia, đôi lúc chiêm vài câu thơ câu hát minh chứng thực tế văn học chính là sổ tay kí ức vui buồn con người nếm trải lăn lộn với cuộc sống. Đời sống tiểu thuyết cũng vậy, sự phóng khoáng ngòi bút chính là phương thức tư duy nghệ thuật đặc biệt, nhà văn đã đi sâu khám phá tâm hồn tuổi thơ Đen nhớ về lúc ở nhà Hai Cu. “Bị khinh miệt như một thứ bỏ đi chỉ vì màu da của mình. Đen nói rằng mình đã cô đơn xiết bao khi không có bạn bè, không có lấy một tình thân ái. Cô chỉ là một nô lệ đúng nghĩa của nó ở mọi lúc mọi nơi trên đất nước nầy. Cô đã khóc và đã chai sạn khi biết mẹ và anh chị mình ở đó ở kia mà không một lần dám đến để làm quen. Đến Mỹ gặp được cha nhưng cô vẫn thao thiết mong một ngày về gặp mẹ. Và tự dưng nước mắt cô chảy thành dòng. Giọng kể đang đều đều tha thiết bổng xen vô tiếng tấm tức. Bất đồ bà má tên Mai choải người qua ôm chặt lấy Đen. Rất gầy gò bên đứa con lạc loài, bà cũng tấm tức khóc. Và cũng chính những dòng nước mắt tuy muộn màng đã khiến mọi người chừng như xích lại gần nhau hơn… Không gian cô đọng và thời gian chừng như đứng lại”*.

Ma lực của cội nguồn khơi gợi không gian, thời gian tĩnh và động đan xen. Chúng ta nhận ra rằng, tác giả không là thượng đế, mọi sự việc rất khách quan được thẩm thấu từ mỗi nhân vật trong cách gọi tên để sẻ chia và bộc bạch. Nhà văn để cho nhân vật mình tự do chiêm nghiệm cho đời dạy dỗ lẫn nhau. Một giang hồ Năm Cang đã thành hình tượng trong tiểu thuyết Ma lực của cội nguồn, trên bước đường phiêu bạc kiếm sống, đời không cho Năm Cang trọn hưởng hạnh phúc một mái ấm gia đình từ ban đầu đến chắp vá với những khát khao. Có thể chiếc giày Năm Cang hơi bị lỏng so với đôi chân, nên lúc guồng quay theo tâm điểm đã phải trượt nhiều lần, có lúc dừng lại là cuộc trở về với cha mẹ nuôi, chỉ còn lại mấy anh em, mất mát bùi ngùi. Hay lúc trở về với con đường, góc phố nhỏ vắng vẻ sau chiến tranh cũng vậy. Cuộc ra đi từ cảng cá Q. đến khu kinh tế mới cho Năm Cang nhận ra biết bao con người, chớp lấy thời cơ dành cho kẻ đục nước béo cò, tìm chút trong rất hiếm. Nhưng Năm Cang đã gạn được và khơi trong chính mình. Đã sẻ chia cho Đen ngộ ra “Bức bối quá mới đành chứ má mầy không bỏ mầy đâu! Bà ấy đã khóc bao nhiêu trong cái đêm định mệnh ấy…niềm đau của mầy tuy lớn, lớn đến độ bốn biển trên trái đất nầy không thể chưa hết, nhưng dù sao, từ nhỏ cho đến khi rời khỏi đất nước này mày đã sống trong nó, bơi lội trong thiệt thòi hất hủi và khinh bỉ nên ít nhiều cũng quen…”* Đó có đủ là ma lực thuyết phục hay không mà cuộc trở về của Linđa Đen cũng không bất ngờ đã từng bỏ tiền ra làm Kara và khách sạn, và sẽ cùng chồng con về xứ này để sống.

Cách sống của Linda Đen phải chăng cũng là hình tượng nhân vật thứ hai trong Ma lực của cội nguồn lần trở về lần hai gặp lại Năm Cang và nhờ mua lại mảnh đất “Xa khu công nghiệp như thế này mới là nơi để sống. Gần quá chịu không nổi với tiếng ồn và ô nhiễm đâu”* và cũng là được ở gần bên chú. “Nghe Đen nói sẽ về cái nơi mà nếu không có nấm mộ của con gái thì Năm Cang đã bỏ đi, tay bất đắc chí bật cười. Và Đen hiểu được cái cười ấy: – Con là người Việt bởi tâm hồn Việt chú Cang ạ! Con sinh ra và lớn lên trên đất nước này. Chồng con cũng vậy. Chúng con muốn trở về. – Con cái mày thì sao? – Chúng là người Mỹ. Tâm hồn và văn hóa Mỹ chính thống. Chúng yêu nơi chúng sinh ra cũng như con. Vì sao chú không bỏ đất này ra đi? Vì nấm mộ của con gái chú đúng không? Vậy thì tuổi thơ con chôn ở đất này như con gái chú vậy”*. Vậy thì đồng cảm cho một sự tử tế với chính mình từ trái tim cả hai nhân vật Năm Cang – Linđa Đen. Cái màu hạnh phúc từ đôi mắt sáng lên của Jerry-Quynh lan tỏa không giới hạn. Từ nhận thức về tôn giáo cũng được nhắc đến trong nhân vật “Bé Nhỏ không tin thần Phật thánh tướng chi hết… Nhỏ thấy vô lí khi phải xin ai đó trên trời để đủ cái ăn. Nó nói với tình rằng chả ai ban cho đâu anh. Không đổ mồ hôi và nhận lời cay đắng của chú cả thì đừng có mà hòng”*, cũng như hạnh phúc đã đến trong trái tim người mẹ: “Và bà Mai đã nhắm mắt trong thiên đường nhưng không ở trên cao. Thiên đường ở hạ giới và nhỏ hẹp trong bốn mét vuông bằng gạch”*. Nơi mà anh con rể bà Mai xây thêm.

Tiểu thuyết Ma lực của cội nguồn cho ta trân quý thêm hình tượng tác giả gửi gắm vào nhân vật chính về một bài học nhân sinh bắt đầu bằng sự tử tế ngự trị trong nhận thức và tâm hồn. Không chỉ để tự cảm hóa mà nhân rộng tình yêu đến với cộng đồng, không tô màu gân guốc, thể sức hút lôi cuốn mạnh mẽ, dường như sự thần bí khó cưỡng lại trái tim dù khô cạn sẽ trở về nguồn cội gia đình, quê hương cho một lần được sống trên đời này.

Bình Định, 19/03/2022 
N.T.P 

* Trích từ “Ma lực của cội nguồn”

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Gừng càng già càng cay
Nhà thơ Ngô Xuân Hội viết về nhà thơ Nguyễn Tùng Linh
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Trần Hoài Anh và sự dấn thân với ‘di sản văn học miền Nam’
Đây là Chuyên luận với nhiều trữ lượng thông tin quý và bổ ích về di sản văn học miền Nam 1954 -1975, với độ dày gần 600 trang. Tập sách được đầu tư, nghiên cứu kỹ lưỡng, nghiêm cẩn, khai mở nhiều thông tin hay và có giá trị.
Xem thêm
Thi ca điểm hẹn: Nguyên Hùng ký họa thơ và nhạc
Chương trình của VOH, Đài tiếng nói Nhân dân TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Lâm Xuân Thi và những vần thơ mang nhiều nỗi niềm suy tư, trắc ẩn!
Bài viết của nhà văn nhà phê bình Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm
Phạm Phương Lan và những câu thơ Nút ra từ đá
| “Nứt ra từ đá” (thơ song ngữ Việt - Anh, NXB Hội Nhà văn 8/2024) là tập thơ thứ bảy của nhà thơ Phạm Phương Lan (SN 1973, quê Hà Tĩnh; Hội viên Hội Nhà văn TPHCM). Trước đó, từ năm 2008, độc giả biết đến chị qua những tập thơ như: “Không là gió mây”, “Góc trọ hồn người”, “Khâu tình”, “Mật ngữ em” v.v... và một số ca khúc được phổ nhạc từ thơ của chị...
Xem thêm
Dấn thân vào con đường văn chương
Ở tuổi 80, nhà thơ Trần Nhuận Minh sáng tác và xuất bản sách nhiều hơn bất kỳ thời điểm nào trong cuộc đời ông.
Xem thêm
Nhà văn Xuân Phượng đi và đến...
Bài viết của nhà thơ Văn Công Hùng trên Người đưa tin
Xem thêm
Phùng Quán – Người đặc biệt nhà số 4
Đối với anh em Văn nghệ Quân đội, nhà thơ Phùng Quán là một trường hợp rất đặc biệt.
Xem thêm
“Khắc đi… khắc đến” - Bước chân của một nghị lực phi thường
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, số 139, ngày 05/9/2024.
Xem thêm