- Truyện
- Nước cuốn bông tràm – truyện ngắn Chinh Văn
Nước cuốn bông tràm – truyện ngắn Chinh Văn
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Lý do trở về cửa biển nầy của chị là gì?. Mỏi gối chồn chân hay hương tàn sắc nhạt?, nhớ cố hương hay lương tâm lên tiếng?, chính chị cũng không trả lời thỏa đáng. Cũng có thể là tất cả những cái đó thôi thúc chị về quê. Chỉ biết rằng sau những đau khổ chất chồng, sau những tháng ngày bon chen ở đất Sài Gòn, nay chị về vùng U Minh Hạ nầy nương nhờ nhà vợ chồng đứa cháu để sống qua ngày với nghề buôn bán cá khô.

Tác giả Chinh Văn
Giữa tháng chạp rồi, gió chướng từ biển thổi vào xuyên qua rừng tràm như mang theo vị ngọt của mật hoa. Đào không ngắm sắc trắng bạt ngàn của bông tràm mà nhìn lớp màn màu úa vàng trên mặt nước chảy từ rừng ra biển. Đó là vô số những bông tràm đã nở, đã tàn, đã bị đám ong rừng hút hết mật giờ rụng xuống và nổi trôi theo dòng nước. Chúng trôi thành những vạt lớn. Không được học hành đến nơi đến chốn nhưng may mắn là Đào có một tâm hồn nhạy cảm. Nhìn những cánh hoa tràm li ti trên mặt nước trôi ra biển, cô liên tưởng đến đời mình. Người đàn bà hơn năm mươi tuổi nầy đã từng có một gia đình hạnh phúc và cũng đã từng đau khổ, nhục nhã đến tận cùng. Số phận chị cũng nổi trôi như những bông tràm kia theo dòng nước cuốn.
Lấy chồng năm mười chín tuổi, một tiệm tạp hóa nhỏ ở cửa biển cũng đủ để gia đình nhỏ nầy có được hạnh phúc dẫu đơn sơ, bình dị. Anh Kha chồng chị làm nghề đi biển, cứ hơn tháng vào bờ một lần. Số tiền lương mà anh mang về cộng với những đồng tiền lời của cái quán nhỏ cũng đủ để ba mẹ con chị sống vững vàng khi chị bước vào tuổi hai lăm.
Vùng biển quê chị mùa nầy yên ả lắm. Những ngày sau tết thường là biển lặng trời êm. Thế nhưng lần vô bờ kỳ nầy của Kha đã gieo vào lòng chị con sóng lớn. Hai đêm rồi Đào không ngủ được. Chị không hiểu tại sao chồng mình lại có ý nghĩ đó?. Anh thuyết phục chị đủ điều. Nào là đi bằng tàu đánh cá lớn rất an toàn, nào là không phải tốn tiền vì chủ tàu của anh ưu tiên cho gia đình những thủy thủ trên tàu… Có nên nghe theo chồng để vượt biên khi hai con còn quá nhỏ?. Để chồng đi một mình thì xẻ nghé tan đàn. Mà vượt biên để làm gì kia chứ?. Đặt sinh mệnh của mình lên đầu con sóng dữ để làm gì?. Một tiếng nước ngoài bẻ đôi không biết, trình độ và nghề nghiệp cũng không. Nghĩ vậy, Đào dứt khoát trả lời chồng:
- Em không đi đâu anh, em sợ lắm. Chắc gì mình qua được trạm gác của Công an biên phòng, rồi còn sóng to gió lớn. Nếu may mắn thoát được thì mình sẽ sống sao đây nơi xứ lạ quê người?. Chưa kể vượt biên là phạm pháp, bị bắt lại là vợ chồng con cái vào tù.
- Đi cả tàu chứ đâu chỉ có vợ chồng mình, người ta phải tốn bao nhiêu là vàng mới được xuống tàu. Cô không đi thì tôi đi một mình - Kha nói vậy rồi bỏ đi ra ngoài hiên ngồi hút thuốc. Vẻ mặt anh rất cương quyết.
Câu chuyện tưởng chừng như qua đi khi cả hai vợ chồng chìm vào giấc ngủ. Sáng mai, Kha cùng đám bạn lại phải theo tàu cá của chủ ra khơi theo đúng lịch trình. Linh cảm của người phụ nữ trong Đào cho biết chuyến đi nầy của Kha lành ít dữ nhiều. Quả vậy, hơn bốn mươi ngày chị không được tin chồng. Cứ mỗi đêm thao thức vì nhớ mong lo lắng, Đào luôn thiếp đi trong nước mắt với câu nói nhoi nhói trong đầu:
- Sao anh đành lòng bỏ mẹ con em?.
Chị đã hiểu ra lý do mất liên lạc của anh Kha, nhưng vẫn cầu mong đó không phải là sự thật.
Rồi Đào cũng nhận được tin chồng. Đó là những lời ngắn ngủi được Kha gởi điện tín về từ đảo Galang của nước Indonesia trong trại tị nạn. Lúc nầy, chị cũng không biết mình vui hay buồn. Vui vì Kha đã không bị làm mồi cho cá nhưng buồn là chị đã mất anh. Dẫu anh sống hay chết cũng đều là vĩnh biệt. Thế là hết. Cảm giác vỡ toang trong chị lúc nầy không gì so sánh được. Cả đất trời như tan ra trong nước mắt. Nếu không có hai đứa con trai nhỏ chắc Đào không thiết sống. Không, Đào không được phép gục ngã. Chị còn có trách nhiệm với con. Các con còn nhỏ dại. Chính chúng đã níu chị ở lại và cũng chính chúng làm chị đau đến xé lòng mỗi khi hỏi chị:
- Sao ba đi chuyến nầy lâu vô quá?
- Mẹ cũng không biết nữa, chắc máy móc trục trặc gì đó thôi, nay mai gì ba sẽ vô mà.
Đào chỉ có thể trả lời vậy với con rồi quay mặt lén lau nước mắt, bởi chị dối con chứ đâu dối được mình. Chuyến đi nầy của chồng sẽ là mãi mãi.
Nỗi buồn đau vì chồng bỏ ra đi và sự nhọc nhằn khổ cực khi một nách hai con cứ ùa vào vùi dập chị như con sóng biển ngoài kia, hết đợt nầy đến đợt khác khiến chị bồng bềnh, trôi nổi, ngã nghiêng. Chị đơn thân chống đỡ, cha mẹ hai bên cũng không giúp được gì.
Vậy là đã tám mùa bông tràm, tám mùa gió chướng. Khoảng thời gian ấy, Đào không nhận được bất kỳ tin tức nào của chồng. Chị vẫn lầm lũi nuôi con và ra vào như chiếc bóng. Nếu như những cây đước ở vùng đất nầy cứ vươn rễ ra bám đất cho chồi mọc lên thì chị cũng chống tay vào đất mà đứng dậy nuôi con bằng mọi cách. Con càng lớn thì nỗi buồn càng vơi, duy chỉ có điều càng lớn chúng nó càng giống cha như đúc khiến cho nỗi nhớ chồng của chị không biến mất hoàn toàn.
Trưa nay, cả xóm nghèo ven biển xôn xao hẳn lên như có cơn bão lớn: Kha trở về. Sau gần mười năm biệt xứ, nay anh trở về với tư cách Việt kiều. Anh về mà không một lời báo trước. Gia đình nhà chồng thì vừa vui mừng vừa hãnh diện. Được tin, Đào mừng như muốn nổ tung. Chị cùng hai con chạy ào sang nhà nội. Thế nhưng, Kha không về một mình. Anh dẫn theo cô vợ lòe loẹt phấn son và đứa con nhỏ khoảng chừng ba tuổi. Ba mẹ con chị hụt hẫng đến chới với. Hai đứa con trai thì xa lạ với cha còn Đào thì nhìn chồng bằng ánh mắt gần như vô cảm. Cũng phải thôi, anh đã bỏ chị ra đi. Anh đã để lại trong chị bao nhớ thương, hờn tủi. Anh bắt chị phải đối đầu với bao khó khăn trong cuộc sống ngần ấy năm trời để nuôi con. Thế vẫn còn chưa đủ. Bây giờ anh đã có vợ con và mục đích lần về nước nầy chỉ là để lo bảo lãnh hai đứa con sang Mỹ. Chị đã không còn ý nghĩa trong suy nghĩ của anh. Thật quá nhẫn tâm!.
Mọi việc rồi cũng đi đến cái đích của nó. Dẫu đau đến xé lòng, chị cũng đành để hai đứa nhỏ theo cha. Chưa được mười tuổi, chúng đâu biết gì. Mọi việc do người lớn sắp đặt thôi.
Sau ngày các con rời Việt Nam, Đào sống như kẻ vô hồn và bắt đầu lao vào rượu, đàn đúm với bạn bè. Trong những cơn say, mọi lời rủ rê của các bạn chị nghe đều có lý và rồi chị theo họ lên Sài Gòn. Đây là thành phố mà chị chỉ nghe tên chứ chưa bao giờ được đến. Hoang phí hết số tiền dành dụm dưới quê, chị bắt đầu tìm việc. Trong những ngày ăn chơi, chị thấy Sài gòn là thiên đường còn những ngày kiếm sống thì rõ ràng đây là địa ngục. Công việc của những tháng đầu là dọn dẹp, rửa chén cho quán phở bởi chị đâu có nghề gì. Dần dà chị cũng có được bạn bè ở Sài Gòn. Tất nhiên, đó là người cùng thân phận. Họ là những người đàn bà trẻ đã qua nhưng già chưa tới, không nghề nghiệp, dân nhập cư từ các tỉnh. Mỗi người một lý do, họ trôi dạt về đây. Nói chung, họ là những người đàn bà nhân cách không hoàn hảo. Họ phân tích thiệt hơn và dìu dắt chị cách kiếm tiền nhiều hơn mà không cần vốn liếng, ăn trắng mặc trơn mà công việc nhẹ nhàng. Cái thật thà, quê mùa của chị cũng là một lợi thế. Họ luôn khuyến khích động viên chị như vậy. Chị bây giờ còn gì để mất?. Thôi thì:
Cũng liều nhắm mắt đưa chân
Để xem con tạo xoay vần đến đâu
Và không biết từ lúc nào, chị đã trở thành gái làng chơi. Thế nhưng, trong công việc ô nhục nầy chị không sao có thể cạnh tranh với những cô gái trẻ trong nghề. Vậy là nơi “làm việc” của chị không phải là những quán bar sang trọng mà là những con đường thiếu ánh sáng, những công viên còn phức tạp. Điểm dừng chân cuối cùng của chị là công viên Hòa Bình nằm trên đường Nguyễn Chí Thanh của quận năm. Làm thứ đồ chơi cho thiên hạ cũng không dễ dàng chút nào. Đào phải vay nặng lãi của bọn xã hội đen để trang trải chi phí ăn ở, để sắm sửa áo quần, son phấn. Thêm nữa, chị còn phải thuê xe tay ga để lượn lờ bắt khách. Cứ chạy lòng vòng quanh công viên để chào mời và cũng để tránh sự truy quét của Công an.
Đào đã khóc thật nhiều trong những cơn say mỗi khi nỗi nhớ quê, nhớ con trỗi dậy. Ánh đèn chớp tắt làm chị nhớ những con đom đóm trên những cây tràm. Những tạp âm của đường phố Sài Gòn làm chị liên tưởng tiếng sóng vỗ ở quê nhà. Những cặp vợ chồng dắt con dạo chơi công viên khiến chị nhớ mình cũng đã từng có một gia đình ấm êm trong quá khứ.
- Trời ơi!…. Tiếng thở dài của Đào bật ra thành âm thanh trong vô thức.
Một làn gió chướng thổi mạnh qua mang theo mùi hương thoang thoảng của bông tràm và làm vô số cánh hoa bé nhỏ xoáy vòng rồi rơi xuống nước. Dòng nước nâu của phù sa và lá mục lại cuốn thảm hoa trên mặt nước trôi ra biển. Những tháng ngày còn lại của cuộc đời chị Đào cũng cứ thế mà bình lặng trôi đi.
Tiếng ồn ào của đoàn du khách đã kéo Đào trở về thực tại. Chị lại chào mời bằng câu quen thuộc:
- Mua khô đi bà con ! khô đặc sản Cà Mau, rất rẻ. Mua về ăn hay làm quà biếu đều ngon cả.
Chị vừa nói vừa cười. Một nụ cười xua tan quá khứ.
C.V