TIN TỨC

Soi lại mình trong thơ, trong hoa và đời

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-17 17:54:21
mail facebook google pos stwis
1406 lượt xem

TRẦN THỊ THẮNG

Tôi chưa lần nào gặp nhà thơ người Khmer Trúc Linh Lan, chị là chủ tịch Hội Nhà văn Cần Thơ. Nhưng khi đọc thơ chị thì có nhiều câu chữ như biết nói sâu hơn như: Soi lại chính mình; Vô thường; Mai ta về Hà Nội chớm đông; Hoài niệm khúc tình xưa; Hà Nội mùa trở gió; Vô thường. Sau này gặp lại, tôi mới tìm đọc kỹ hơn: Thơ chị rất gần với con người ngoài đời. Xin bắt đầu bằng từ bài thơ Soi lại chính mình và trở lại những bài thơ chị in trong tập

Hình như tôi đánh mất một cái gì trong tôi

Niềm tin,

Sự hy vọng,

Cái tốt đẹp của cuộc đời.

(Soi lại chính mình, 3-1-2012)

Đọc tiếp dòng thơ dưới đây, bắt tôi phải đi tìm thơ trong các tập thơ Trúc Linh Lan

Tôi ngồi ở quán cà phê

Người bạn nói với tôi bằng học vị

Người bạn nói với tôi bằng mặt nạ nhiều màu

Một người bạn khác thì: Sao cũng được!

Tôi tự nhủ:

Gương mặt nào cho buổi sáng

Gương mặt nào cho buổi chiều

Sự lựa chọn mỏi mệt

Trên sân khấu bi hài.

Hãy cho tôi một gương mặt người tôi soi lại chính tôi!

(Soi lại chính mình)

Vậy là văn nghệ sĩ thời nay có bao điều để lựa chọn, chọn cho mình gương mặt nào để là mình, để nguyện làm người dẫn dắt cái đẹp đến với công chúng.

Thềm thơ mấy bậc hoa rơi

Gót sen ẩn hiện gọi mời hồn xưa

Tiếng thơ, tiếng sáo, tiếng mưa...

Đá trong tâm thức cợt đùa tri âm

Đi qua cánh cổng "Vọng Tâm"

Áo nghê thường, lụa nghê thường, khói sương

Em ngồi thêu áo nhân duyên

Mỏng manh sợi chỉ nghe thương phận mình

(Hồn xưa trên cánh tay em, 2007)

Đây là bài thơ vọng về hồn xưa, để mở ra “Đi qua cánh cổng "Vọng Tâm"

Mỗi nhà thơ đang sống thời hiện tại phải tự đặt mình trong nền văn hóa ngàn xưa để đối nhân xử thế, để viết, để là chính mình. Tôi cho rằng viết được một câu thơ, một bài thơ có một người đọc cũng đã là thành công. Trong thơ Trúc Linh Lan ngoài Soi lại chính mình ta lại đọc những bài thơ trước đó: Mười năm

Mười năm bạc cả tóc xanh

Mười năm lạc mãi khúc quanh đời mình

Mười năm một điệu tang tình                                        

Mười năm luyến láy đời mình chiêm bao.

( Mười năm, 6-5-09)

Đời người trải qua bao cay đắng về đời sống, duyên phận, về giàu nghèo. Trúc Linh Lan cũng có nỗi buồn quá lớn khi người chồng là chỗ dựa, là ý trung nhân hợp nhau và cùng yêu văn học thơ ca, anh đã ra đi mãi mãi. Nhà thơ luôn soi lại mình trong khi buồn rồi lại đứng dậy. Trong một bài thơ Bạn tôi chị viết về người bạn khi vợ ra đi để lại hai đứa con nhỏ cho anh, nỗi buồn của anh có nỗi buồn của tác giả cùng hoàn cảnh, nên câu thơ như bấu vào đời, bấu vào cuộc sống hiện tại với nhiều ước lệ

Bạn tôi gã đàn ông góa vợ

Hai đứa con giữ lấy hắn một bước không rời

Tóc trên đầu... đen dần ít sợi,

Trắng với nỗi buồn đêm một bóng lẻ loi

Nhà có ba người ba bóng mồ côi

Hai đứa trẻ mơ gọi - mẹ ơi!

Còn hắn thì... nhớ vợ.

Đó cũng là điều hắn rất sợ,

Sợ bản thân mình - sợ ký ức phai phôi.

…Đêm nay,

Hắn lại về trong cơn say,

Thắp một nén hương hắn rơi nước mắt,

Đứa con gái lén nhìn hắn khóc,

Nó nhận ra một điều bố nó rất cô đơn.

(Bạn tôi, Mùng 5 tết 2007).

Đi qua những mất mát, những còn lại là sự trăn trở của nhà thơ đương thời. Thơ Trúc Linh Lan có nhiều trở trăn trước cuộc sống hiện tại và quá khứ, hiện tại và tương lai để lại làm nhiệm vụ dẫn dắt người đọc cùng đứng dậy nhìn về một niềm vui nho nhỏ trước mắt và tương lai: “Mặt trời vừa lên/Đoá quỳnh khép mắt để lại mùi hương nuối tiếc.”

Đêm mơ

Đêm trăn trở

Đêm thao thức

Đêm chờ…

Nhiều đêm đi qua như một cơn giao mùa

Tiếng gió gọi tình, tiếng tắc kè đơn độc

Tiếng chim cú gọi khuya khô khốc

… Ký ức lộn xộn như một cung đường nhiều ngả

Ta trơ vơ

Ta không kịp nhận ra mình

Mặt trời vừa lên

Đoá quỳnh khép mắt để lại mùi hương nuối tiếc.

(Khoảng trắng màu hoa quỳnh,10.6.012)

Cũng đề tài hoa quỳnh, nhà thơ Trúc Linh Lan lại làm theo một ý tưởng có thể quỳnh không nở thì sao? Con tạo xoay vần không còn xoay được thì thế nào? Bản lĩnh nhà thơ dù trăng tàn, hoa không nở thì phải làm gì? Nhà thơ tự trả lời: Sương rơi trên trang thơ/Hay là nước mắt?

Có một đoá quỳnh không nở nữa,

Đêm không còn trăng.

Người đàn ông lục tung quá khứ,

Tìm một nụ hồng,

Để yêu.

Ướp hương vào tâm tưởng

Hoài niệm xưa,

Hoài niệm cuộc tình.

Người đàn ông cất trăng vào ký ức,

Để quên.

Sương rơi trên trang thơ,

Hay là nước mắt?

Xác thu rơi trong chiều vắng,

Quỳnh không còn trăng,

Không nở.

(Đóa quỳnh không nở)

Khi đọc thơ Trúc Linh Lan có nhiều trăn trở trước cuộc đời, trong tâm tưởng, nhưng khát vọng làm người, làm nhà thơ đúng với mình giữa cuộc đời mênh mông này rất khó nhưng vẫn phải làm. Trước tiên phải làm một nhà thơ đồng cảm sâu nặng với con người

Mùa xuân em mười tám

Đã con bế con bồng

Em trở về quê cũ

Lòng tôi buồn mênh mông

...Líu ríu con nước chảy

Líu ríu tiếng ru hời

Líu ríu ơi líu ríu

Tôi yêu em

Một đời!

(Líu ríu lục bình trôi,13/11/012)

Vậy trách nhiệm nhà thơ là phải hiểu hết thời cuộc ngày nay và bản lĩnh nhà thơ dẫn bằng thơ tới cuộc đời. Thơ lúc này không phải đi trên mây, cũng không thể tô hồng mà phải đau cùng nỗi đau của mọi người và dẫn họ đi bằng thơ của chính mình. Tôi đọc thơ Trúc Linh Lan không có con chữ tròn vo mà nó luôn day dứt, nó biết bấu chặt vào cuộc đời với nỗi đau có thật để hòa đồng và yêu thương con người bằng cả trái tim nhà thơ. Chị hoạt động thơ ca từ những năm 90 của thế kỷ trước tới giờ, mới được kết nạp vào hội Nhà văn Việt Nam năm 2016. Nhưng thơ chị đã hòa đồng cùng nhịp thơ thời đại từ hơn hai mươi năm nay. Bài Vô thường gõ lại nhịp thơ và hơi thở của chính nhà thơ sang thế kỷ 21

Đi qua ngày,

Khu vườn lạnh tanh hâm hao cơn khát nước

Mặt trời cười trôi ngược

Tôi tự nhận ra mình đang đứng ở cuối đông.

Đi qua ngày,

Ngọn gió lạc mênh mông,

Thổi bão cát lòng tôi xoáy hút

Sa mạc hư không, miền yêu thương tím ngắt

Loài cây xương rồng rực nở lửa từ hoa.

(Vô thường, 1-1-2012)

Nó như một mệnh lệnh từ trái tim nhà thơ phải làm gì nhiều hơn nữa cho thế kỷ tới, cho đất nước ta những năm tới.
 

Các nhà thơ nhà văn: Ngọc Tuyết, Bùi Đức Ánh, Lê Thị Kim, Trần Thị Thắng, Đặng Nguyệt Anh, , Phương Huyền, Trúc Linh Lan (bìa phải)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm
Con người Chí Phèo
Cái chết của Chí phèo như bản cáo trạng về xã hội thực dân nửa phong kiến thối rữa, nhàu nát, là tiếng kêu oan khốc thấu tận trời xanh của những kiếp người “siêu khổ”.
Xem thêm