TIN TỨC

Soi lại mình trong thơ, trong hoa và đời

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-17 17:51:13
mail facebook google pos stwis
2695 lượt xem

TRẦN THỊ THẮNG

Tôi chưa lần nào gặp nhà thơ người Khmer Trúc Linh Lan, chị là chủ tịch Hội Nhà văn Cần Thơ. Nhưng khi đọc thơ chị thì có nhiều câu chữ như biết nói sâu hơn như: Soi lại chính mình; Vô thường; Mai ta về Hà Nội chớm đông; Hoài niệm khúc tình xưa; Hà Nội mùa trở gió; Vô thường. Sau này gặp lại, tôi mới tìm đọc kỹ hơn: Thơ chị rất gần với con người ngoài đời. Xin bắt đầu bằng từ bài thơ Soi lại chính mình và trở lại những bài thơ chị in trong tập

Hình như tôi đánh mất một cái gì trong tôi

Niềm tin,

Sự hy vọng,

Cái tốt đẹp của cuộc đời.

(Soi lại chính mình, 3-1-2012)

Đọc tiếp dòng thơ dưới đây, bắt tôi phải đi tìm thơ trong các tập thơ Trúc Linh Lan

Tôi ngồi ở quán cà phê

Người bạn nói với tôi bằng học vị

Người bạn nói với tôi bằng mặt nạ nhiều màu

Một người bạn khác thì: Sao cũng được!

Tôi tự nhủ:

Gương mặt nào cho buổi sáng

Gương mặt nào cho buổi chiều

Sự lựa chọn mỏi mệt

Trên sân khấu bi hài.

Hãy cho tôi một gương mặt người tôi soi lại chính tôi!

(Soi lại chính mình)

Vậy là văn nghệ sĩ thời nay có bao điều để lựa chọn, chọn cho mình gương mặt nào để là mình, để nguyện làm người dẫn dắt cái đẹp đến với công chúng.

Thềm thơ mấy bậc hoa rơi

Gót sen ẩn hiện gọi mời hồn xưa

Tiếng thơ, tiếng sáo, tiếng mưa...

Đá trong tâm thức cợt đùa tri âm

Đi qua cánh cổng "Vọng Tâm"

Áo nghê thường, lụa nghê thường, khói sương

Em ngồi thêu áo nhân duyên

Mỏng manh sợi chỉ nghe thương phận mình

(Hồn xưa trên cánh tay em, 2007)

Đây là bài thơ vọng về hồn xưa, để mở ra “Đi qua cánh cổng "Vọng Tâm"

Mỗi nhà thơ đang sống thời hiện tại phải tự đặt mình trong nền văn hóa ngàn xưa để đối nhân xử thế, để viết, để là chính mình. Tôi cho rằng viết được một câu thơ, một bài thơ có một người đọc cũng đã là thành công. Trong thơ Trúc Linh Lan ngoài Soi lại chính mình ta lại đọc những bài thơ trước đó: Mười năm

Mười năm bạc cả tóc xanh

Mười năm lạc mãi khúc quanh đời mình

Mười năm một điệu tang tình                                        

Mười năm luyến láy đời mình chiêm bao.

( Mười năm, 6-5-09)

Đời người trải qua bao cay đắng về đời sống, duyên phận, về giàu nghèo. Trúc Linh Lan cũng có nỗi buồn quá lớn khi người chồng là chỗ dựa, là ý trung nhân hợp nhau và cùng yêu văn học thơ ca, anh đã ra đi mãi mãi. Nhà thơ luôn soi lại mình trong khi buồn rồi lại đứng dậy. Trong một bài thơ Bạn tôi chị viết về người bạn khi vợ ra đi để lại hai đứa con nhỏ cho anh, nỗi buồn của anh có nỗi buồn của tác giả cùng hoàn cảnh, nên câu thơ như bấu vào đời, bấu vào cuộc sống hiện tại với nhiều ước lệ

Bạn tôi gã đàn ông góa vợ

Hai đứa con giữ lấy hắn một bước không rời

Tóc trên đầu... đen dần ít sợi,

Trắng với nỗi buồn đêm một bóng lẻ loi

Nhà có ba người ba bóng mồ côi

Hai đứa trẻ mơ gọi - mẹ ơi!

Còn hắn thì... nhớ vợ.

Đó cũng là điều hắn rất sợ,

Sợ bản thân mình - sợ ký ức phai phôi.

…Đêm nay,

Hắn lại về trong cơn say,

Thắp một nén hương hắn rơi nước mắt,

Đứa con gái lén nhìn hắn khóc,

Nó nhận ra một điều bố nó rất cô đơn.

(Bạn tôi, Mùng 5 tết 2007).

Đi qua những mất mát, những còn lại là sự trăn trở của nhà thơ đương thời. Thơ Trúc Linh Lan có nhiều trở trăn trước cuộc sống hiện tại và quá khứ, hiện tại và tương lai để lại làm nhiệm vụ dẫn dắt người đọc cùng đứng dậy nhìn về một niềm vui nho nhỏ trước mắt và tương lai: “Mặt trời vừa lên/Đoá quỳnh khép mắt để lại mùi hương nuối tiếc.”

Đêm mơ

Đêm trăn trở

Đêm thao thức

Đêm chờ…

Nhiều đêm đi qua như một cơn giao mùa

Tiếng gió gọi tình, tiếng tắc kè đơn độc

Tiếng chim cú gọi khuya khô khốc

… Ký ức lộn xộn như một cung đường nhiều ngả

Ta trơ vơ

Ta không kịp nhận ra mình

Mặt trời vừa lên

Đoá quỳnh khép mắt để lại mùi hương nuối tiếc.

(Khoảng trắng màu hoa quỳnh,10.6.012)

Cũng đề tài hoa quỳnh, nhà thơ Trúc Linh Lan lại làm theo một ý tưởng có thể quỳnh không nở thì sao? Con tạo xoay vần không còn xoay được thì thế nào? Bản lĩnh nhà thơ dù trăng tàn, hoa không nở thì phải làm gì? Nhà thơ tự trả lời: Sương rơi trên trang thơ/Hay là nước mắt?

Có một đoá quỳnh không nở nữa,

Đêm không còn trăng.

Người đàn ông lục tung quá khứ,

Tìm một nụ hồng,

Để yêu.

Ướp hương vào tâm tưởng

Hoài niệm xưa,

Hoài niệm cuộc tình.

Người đàn ông cất trăng vào ký ức,

Để quên.

Sương rơi trên trang thơ,

Hay là nước mắt?

Xác thu rơi trong chiều vắng,

Quỳnh không còn trăng,

Không nở.

(Đóa quỳnh không nở)

Khi đọc thơ Trúc Linh Lan có nhiều trăn trở trước cuộc đời, trong tâm tưởng, nhưng khát vọng làm người, làm nhà thơ đúng với mình giữa cuộc đời mênh mông này rất khó nhưng vẫn phải làm. Trước tiên phải làm một nhà thơ đồng cảm sâu nặng với con người

Mùa xuân em mười tám

Đã con bế con bồng

Em trở về quê cũ

Lòng tôi buồn mênh mông

...Líu ríu con nước chảy

Líu ríu tiếng ru hời

Líu ríu ơi líu ríu

Tôi yêu em

Một đời!

(Líu ríu lục bình trôi,13/11/012)

Vậy trách nhiệm nhà thơ là phải hiểu hết thời cuộc ngày nay và bản lĩnh nhà thơ dẫn bằng thơ tới cuộc đời. Thơ lúc này không phải đi trên mây, cũng không thể tô hồng mà phải đau cùng nỗi đau của mọi người và dẫn họ đi bằng thơ của chính mình. Tôi đọc thơ Trúc Linh Lan không có con chữ tròn vo mà nó luôn day dứt, nó biết bấu chặt vào cuộc đời với nỗi đau có thật để hòa đồng và yêu thương con người bằng cả trái tim nhà thơ. Chị hoạt động thơ ca từ những năm 90 của thế kỷ trước tới giờ, mới được kết nạp vào hội Nhà văn Việt Nam năm 2016. Nhưng thơ chị đã hòa đồng cùng nhịp thơ thời đại từ hơn hai mươi năm nay. Bài Vô thường gõ lại nhịp thơ và hơi thở của chính nhà thơ sang thế kỷ 21

Đi qua ngày,

Khu vườn lạnh tanh hâm hao cơn khát nước

Mặt trời cười trôi ngược

Tôi tự nhận ra mình đang đứng ở cuối đông.

Đi qua ngày,

Ngọn gió lạc mênh mông,

Thổi bão cát lòng tôi xoáy hút

Sa mạc hư không, miền yêu thương tím ngắt

Loài cây xương rồng rực nở lửa từ hoa.

(Vô thường, 1-1-2012)

Nó như một mệnh lệnh từ trái tim nhà thơ phải làm gì nhiều hơn nữa cho thế kỷ tới, cho đất nước ta những năm tới.
 

Các nhà thơ nhà văn: Ngọc Tuyết, Bùi Đức Ánh, Lê Thị Kim, Trần Thị Thắng, Đặng Nguyệt Anh, , Phương Huyền, Trúc Linh Lan (bìa phải)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm