TIN TỨC

Thơ Võ Miên Trường và những nỗi buồn riêng mang

Người đăng : vanchuong
Ngày đăng: 2021-11-10 06:10:53
mail facebook google pos stwis
2841 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

Võ Miên Trường là gương mặt thơ nữ mới xuất hiện trong những năm gần đây nhưng người ta biết đến chị, ấn tượng về chị bởi những vần thơ đậm chất trữ tình.

Dù viết về mình, về người, về đời thơ chị cũng mang nỗi buồn sâu thẳm. Buồn về thân phận với trùng điệp những gập ghềnh, bất trắc, những va đập ngã nghiêng trong hành trình cuộc đời mà Võ Miên Trường đã nếm trải. Những âm vang đó khúc xạ qua lăng kính trải nghiệm của chị trở thành nỗi ám ảnh, day dứt khôn nguôi và có thể theo nhà thơ suốt cả cuộc đời này.

Có lẽ, chỉ những người bạn bè thân thích, ruột thịt của nhà thơ Võ Miên Trường mới biết đằng sau những vần thơ trữ tình đó là bắt nguồn từ hiện thực những năm tháng khốn khó của chị và cả gia đình. Cuộc vật lộn, mưu sinh cơm áo đã làm vỡ tan bao giấc mộng của cô gái miền Trung xinh đẹp thuở nào. Trong bài Người đàn bà làm thơ, Võ Miên trường không ngần ngại tỏ bày:

Người đàn bà/ Mượn gió thả hương bay/ Tập làm thơ/ Trong nỗi nhớ vụng về xưa cũ/ Đối diện đêm/ Trở trăn tìm câu chữ/ Trải lòng mình ơi muối mặn gừng cay.

Người đàn bà làm thơ/ Ẩn giấu mình lặng lẽ/ Rồi một ngày/ Hồn thơ bất chợt ghé tìm...

Người đàn bà/ Ngồi hong từng con chữ phiêu linh/ Ngọt thơm – đắng đót/ Đắng - giữ riêng mình/ Ngọt - gửi vào thơ

Người đàn bà/ Đắm mình trong những giấc mơ/ Gánh đa đoan đổ nghiêng bờ nghiệt ngã/ Đau đáu nỗi niềm/ Xô lệch mùa riêng...

Người đàn bà/ Đắng - Ngọt cứ làm thơ...

Chị tìm đến thơ, coi thơ như sự cứu cánh, nhờ thơ nói hộ cho chị bao điều. Bởi chỉ ở thơ, Võ Miên Trường mới giãi bày hết mọi ngõ ngách sâu kín của tâm hồn mình một cách rốt ráo nhất và chị có thể cảm thấy nhẹ lòng hơn để mà sống mà yêu cho trọn kiếp người.

Đó là những giọt nước mắt, là nỗi đau đến khôn cùng của phận người ly hương với bộn bề nỗi lo toan, vất vả. Phố người lận đận phận quê/ Tha phương chìm nổi/ Bộn bề áo cơm/ Vỉa hè/ Vất vả sớm hôm/ Thấp người bé họng/ Chỉ giòn tiếng rao/ Chợ người bán những xanh xao/ Người quê mua những chênh chao.../ Phận mình... (Chợ người). Đọc những vần thơ chị viết nghe sao mà xa xót. Đặc biệt là những phận người xa quê với đường đời chông, đầy bất trắc vì sự sinh tồn.

Gió bụi kinh thành và những bon chen, được thua cơm áo mà Võ Miên Trường đã trải qua, giờ đây chị cảm thấy thấm thía. Một nỗi buồn đã ăn sâu trong từng tế bào, từng thớ thịt. Buồn đến độ, có lúc chị muốn “trùng tu nỗi buồn”: Bất chợt cơn gió chiều nay/ Thổi từ/ phía ấy chân ngày em đi/ Đường bay/ bạt cánh thiên di/ Nghe phong phanh tiếng thầm thì - giá - như// Mai ngày tình hóa thiên thu/ Em về gom nhớ/ trùng tu nỗi buồn.

Người đàn bà giàu nghị lực như chị thì dù hoàn cảnh có thế nào đi chăng nữa cũng không thể làm gục ngã. Ta gồng mình/ Gánh nặng kiếp phù sinh (Gánh).

Sự thật trần trụi của đời sống đi vào thơ Võ Miên Trường một cách tự nhiên và trở nên có hồn. Giữa đời thường và thơ nó như hòa quyện trong chị tạo nên một giá trị thẩm mỹ, dễ neo đậu trong lòng người đọc, bởi những cảm xúc mộc mạc, bình dị, chân thành. Cái chân thành ấy, được trái tim một người đàn bà thấu hiểu mọi lẽ nông – sâu, được – mất, trái tim ấy rất nhạy cảm, rưng rưng khi ngẫm về mình về người! Nửa đêm/ Nửa tỉnh nửa say/ Nửa lay lắt nhớ/ Nửa thương vay đời/ Nửa đau phận bạc như vôi/ Nửa cười như rượu say người.../ Nửa đêm... (Trăn trở).

Có lẽ thế mạnh của chị là thơ lục bát, chị có hẳn 1 tập thơ lục bát (Giữa bộn bề tôi) gồm 60 bài. Không hẳn cả tập bài nào cũng hay, nhưng phải thừa nhận rằng Võ Miên Trường có một số bài lục bát viết khá thành công. Thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay, nếu nhà thơ không có tài năng thật sự thì lục bát dễ đi vào dễ dãi, kiểu ghép vần ráp chữ. Thơ lục bát Võ Miên Trường đã không phạm vào điều đó. Tôi cho rằng chị là người làm thơ lục bát có “nghề”. Nhà thơ Võ Miên Trường có những câu lục bát, bài lục bát để lại trong lòng người đọc những dư ba. Bởi chị biết làm mới thể thơ lục bát qua cách sử sụng câu chữ, hình ảnh, tứ thơ và cách vắt dòng.

- Đêm

cào cấu những tội tình

Rách toang nỗi nhớ thương mình trắng tay

(Cánh phù du bay)

- Ai mang nắng đổ vào chiều

Mà hoàng hôn trượt nát điều răn xưa

(Tím điều răn xưa)

- Ừ thôi

Trả nắng cho ngày

Trả

Trăng cho những rằm đầy khuyết nhau

(Trả)

Từ những trải nghiệm của bản thân người đàn bà luôn chịu nhiều thua thiệt, sẵn sàng hi sinh tất cả vì gia đình, chồng con nên nhà thơ Võ Miên Trường cũng có những triết lý sâu sắc về hạnh phúc và khổ đau. Đôi lúc, nhân vật trữ tình trong thơ chị cất tiếng “riêng mang”:

Bên hiên đời ta nhặt tình hư ảo/ Kỷ niệm về xô lệch màng trăng nghiêng/ Chao chát nhớ từng đêm dài trăn trở/ Ta ngỡ ngàng đối diện nỗi niềm riêng

Giữa vành đai nỗi nhớ cứ gập ghềnh/ Từng giấc mộng chưa kịp dày đã sáng/ Thu võ vàng thương giọt sương phai úa/ Nhỏ xuống đời giọt nước mắt vương mang (Vương mang).

Trong hầu hết các sáng tác của nhà thơ Võ Miên Trường, điều dễ nhận thấy là chị đề cập nhiều đến thân phận người phụ nữ. Bởi hơn ai hết, Võ Miên Trường thấu hiểu những nỗi đau mà họ phải gánh chịu. Bởi dù gì thì người đàn bà vẫn thiệt thòi nhiều hơn so với cánh đàn ông. Nghĩ về mình, chị chợt nhận thấy thấp thoáng bóng dáng âm thầm, khổ đau của mẹ và cũng là của mình. Nhà thơ càng ngậm ngùi, xót xa, khắc khoải hơn.

Oằn lưng mẹ gánh gian nan

Lệch vai trĩu nặng lầm than cuộc đời

Tuổi xuân mẹ cũng một thời

Vì con – không biết đánh rơi lúc nào

......

Một đời dẫu đến trăm năm

Chùng chân mỏi gối vẫn đằm nét tươi

Bôn ba trên cánh đồng người

Bàn chân tứa máu gai đời mẹ tôi

(Đẫm gánh đa đoan)

Sự trở đi trở lại trong thơ chị là hình ảnh của đêm, mưa, buổi chiều... Những hình ảnh ấy gợi lên cảm giác cô đơn, trống vắng, hoang hoải, miên man, chồng chất, trùng điệp những nỗi buồn.

- Đêm nghiêng/ Mình em lật xô mình/ Độc hành/ Tìm cô đơn cứu rỗi (Đêm nghiêng).

- Hình như nỗi nhớ dậy men/ Nghe đâu gió bấc ngược đêm tìm về (Một mai em).

- Người đàn bà ngược gió/ Ngược nỗi đau/ Ve vuốt trái tim mình/ Ngược màn đêm/ Tìm về thời trinh nữ/ Đôi mắt huyền/ Giờ đã đẫm sương sa (Ngược).

- Đêm vỗ về tiếng nguyệt cầm đơn lẻ/ Khóc thương vay một thuở trót yêu người/ Một mai ư... trong nhau là không thể/ Đợi đêm dài thao thức... nguyệt cầm rơi... (Lặng lẽ đêm).

- Phố mưa xô lệch nỗi niềm/ Nghiêng vai ta gánh cả triền em xanh (Mưa phố).

- Chiều em đau một giọt mưa/ Nghiêng đời rót xuống dạ thưa cùng người (Chiều).

- Mưa ơi - từ thuở trăng đầy/ Nửa vời vợi nhớ nửa lay lắt sầu (Khúc mưa...).

- Gói thương cho kín đợi chờ/ Dốc đời mưa vẫn mịt mờ phận mưa... (Phận mưa).

- Khúc quanh nào dắt chiều vơi/ Câu thơ nhuộm tím chiều rơi mịt mùng (Lục bát).

- Em cầm chiều đẫm chạm đêm/ Đốt miền trăng lạnh sưởi êm giấc buồn (Hờn đêm).

- Ta rối bời nghiêng theo chiều biển động/ Quay hướng nào cũng vấp phải mênh mông (Biển gọi).

- Chiều rơi sợi nắng vô tình/ Vương vào mắt tím.../ chùng chình bước chân... (Chiều tím).

- Nắng chiều giọt thắm giọt loang/ Hoang mang em nhặt đa đoan buộc mình... (Chiều nắng vỡ).

*

Không phải chị kêu gào than khóc mà đó là sự bộc bạch giãi bày nỗi lòng của chị với mong muốn tìm được sự đồng cảm và tri âm. Vì thế, âm hưởng chính trong thơ Võ Miên Trường là những giai điệu trầm, buồn, nhẹ nhàng, đằm thắm, cô đơn nhưng vẫn mang vẻ đẹp trong trẻo. Nó không chỉ là nỗi niềm riêng mà thấm đẫm tâm sự chung, không chỉ nói cho mình mà nói cho người; biểu đạt nỗi nghẹn ngào, thổn thức sâu xa trong trái tim của nhân vật trữ tình. Đủ một đời vay mượn nắng mưa/ Đo khôn dại cuộc đời/ Đếm đa đoan mòn mỏi...

Một sự thật là con đường đến với hạnh phúc càng thử thách, chông gai, trầy trật bao nhiêu thì giá trị của hạnh phúc có được càng lớn lao, bền vững và đáng quý bấy nhiêu. Cuộc đời chị là một minh chứng, sau những lo toan giữa chợ đời vì sự mưu sinh, giờ chị có cuộc sống ổn định, vui vầy bên chồng con và các cháu nội, ngoại. Dẫu chưa phải là cuộc sống sung túc như nhiều gia đình khác nhưng chị có thể tự hào và hãnh diện, tự thấy phục chính mình khi chị nhìn lại đoạn đường đời mà chị đã đi qua.

Càng về sau, nhà thơ Võ Miên Trường càng hướng vào khai thác, khám phá thế giới nội tâm của chính mình. Nhà thơ đã làm cuộc hành trình để nhìn lại mình sau chặng đường dài nếm đủ những đắng chát.

Sáu mươi năm/ Dòng sông đời lẩn khuất/ Ta lênh đênh giữa đôi bờ ảo thực/ Nợ mẹ cha hình hài nguyên vẹn/ Thắt lòng khi cha mẹ từng ngày mỏng vội/ Khúc quanh đời chưa biết giấu vào đâu

Sáu mươi năm/ Người con gái năm xưa gánh vết trầm quá khứ/ Trên đôi vai gầy tất tả nắng mưa/ Đã ngấm hết vô thường/ Đã đẫm mùi khôn dại/ Đã kiệt cùng trả vay.../ Vạt hoàng hôn trái mùa vẫn ngằn ngặt nắng... (Khúc tôi).

Nghẹn ngào, trống vắng, đau buồn lần lượt hiện diện là mắc xích xuyên suốt hành trình thơ Võ Miên Trường và trở thành “tạng” thơ riêng của chị. Cái hay là dù buồn, dù tổn thương, va vấp thơ chị vẫn hiền lành, nhẹ nhàng và “RIÊNG MANG” chứ không phải kiểu rên rỉ, oán trách, đổ lỗi. Vắt kiệt nỗi buồn/ Đến tận cùng khô khốc/ Xé mây trời dệt thảm lụa xanh mơ (Ngược).

Giữa những trăn trở, thao thức, tự đối diện với chính bản thân mình, tự vấn chính mình để soi thấu, củng cố lòng tin, sưởi ấm tình người. Nhặt hoàng hôn rớt đầy tay/ Ta - người nhặt những vơi đầy trong nhau (Nhặt những vơi đầy).

Cho đến thời điểm này, Võ Miên Trường đã in 4 tập thơ. Đó là thành quả mà nhà thơ đã dày công, miệt mài gieo hạt, vun trồng trên cánh đồng chữ nghĩa. Dù chưa phải là tiếng thơ độc đáo so với những nhà thơ nữ đương thời, nhưng những gì Võ Miên Trường có được, những gì chị đã đóng góp đã tạo nên sự đa sắc hương trong dàn đồng của ca của thơ nữ Việt Nam hôm nay. Đó là điều đáng được ghi nhận ở một cây bút có tâm, sống thành thật và say mê thơ như Võ Miên Trường. Ngồi hong những con chữ phiêu linh/ Ngọt thơm - đắng đót/ Đắng giữ riêng mình/ Ngọt gửi vào thơ (Người đàn bà).

Nguồn: https://phuongnamplus.vn/

Một vài hình ảnh nhà thơ Võ Miên Trường cùng bạn văn.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm