TIN TỨC

Thơ Võ Miên Trường và những nỗi buồn riêng mang

Người đăng : vanchuong
Ngày đăng: 2021-11-10 06:10:53
mail facebook google pos stwis
2754 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

Võ Miên Trường là gương mặt thơ nữ mới xuất hiện trong những năm gần đây nhưng người ta biết đến chị, ấn tượng về chị bởi những vần thơ đậm chất trữ tình.

Dù viết về mình, về người, về đời thơ chị cũng mang nỗi buồn sâu thẳm. Buồn về thân phận với trùng điệp những gập ghềnh, bất trắc, những va đập ngã nghiêng trong hành trình cuộc đời mà Võ Miên Trường đã nếm trải. Những âm vang đó khúc xạ qua lăng kính trải nghiệm của chị trở thành nỗi ám ảnh, day dứt khôn nguôi và có thể theo nhà thơ suốt cả cuộc đời này.

Có lẽ, chỉ những người bạn bè thân thích, ruột thịt của nhà thơ Võ Miên Trường mới biết đằng sau những vần thơ trữ tình đó là bắt nguồn từ hiện thực những năm tháng khốn khó của chị và cả gia đình. Cuộc vật lộn, mưu sinh cơm áo đã làm vỡ tan bao giấc mộng của cô gái miền Trung xinh đẹp thuở nào. Trong bài Người đàn bà làm thơ, Võ Miên trường không ngần ngại tỏ bày:

Người đàn bà/ Mượn gió thả hương bay/ Tập làm thơ/ Trong nỗi nhớ vụng về xưa cũ/ Đối diện đêm/ Trở trăn tìm câu chữ/ Trải lòng mình ơi muối mặn gừng cay.

Người đàn bà làm thơ/ Ẩn giấu mình lặng lẽ/ Rồi một ngày/ Hồn thơ bất chợt ghé tìm...

Người đàn bà/ Ngồi hong từng con chữ phiêu linh/ Ngọt thơm – đắng đót/ Đắng - giữ riêng mình/ Ngọt - gửi vào thơ

Người đàn bà/ Đắm mình trong những giấc mơ/ Gánh đa đoan đổ nghiêng bờ nghiệt ngã/ Đau đáu nỗi niềm/ Xô lệch mùa riêng...

Người đàn bà/ Đắng - Ngọt cứ làm thơ...

Chị tìm đến thơ, coi thơ như sự cứu cánh, nhờ thơ nói hộ cho chị bao điều. Bởi chỉ ở thơ, Võ Miên Trường mới giãi bày hết mọi ngõ ngách sâu kín của tâm hồn mình một cách rốt ráo nhất và chị có thể cảm thấy nhẹ lòng hơn để mà sống mà yêu cho trọn kiếp người.

Đó là những giọt nước mắt, là nỗi đau đến khôn cùng của phận người ly hương với bộn bề nỗi lo toan, vất vả. Phố người lận đận phận quê/ Tha phương chìm nổi/ Bộn bề áo cơm/ Vỉa hè/ Vất vả sớm hôm/ Thấp người bé họng/ Chỉ giòn tiếng rao/ Chợ người bán những xanh xao/ Người quê mua những chênh chao.../ Phận mình... (Chợ người). Đọc những vần thơ chị viết nghe sao mà xa xót. Đặc biệt là những phận người xa quê với đường đời chông, đầy bất trắc vì sự sinh tồn.

Gió bụi kinh thành và những bon chen, được thua cơm áo mà Võ Miên Trường đã trải qua, giờ đây chị cảm thấy thấm thía. Một nỗi buồn đã ăn sâu trong từng tế bào, từng thớ thịt. Buồn đến độ, có lúc chị muốn “trùng tu nỗi buồn”: Bất chợt cơn gió chiều nay/ Thổi từ/ phía ấy chân ngày em đi/ Đường bay/ bạt cánh thiên di/ Nghe phong phanh tiếng thầm thì - giá - như// Mai ngày tình hóa thiên thu/ Em về gom nhớ/ trùng tu nỗi buồn.

Người đàn bà giàu nghị lực như chị thì dù hoàn cảnh có thế nào đi chăng nữa cũng không thể làm gục ngã. Ta gồng mình/ Gánh nặng kiếp phù sinh (Gánh).

Sự thật trần trụi của đời sống đi vào thơ Võ Miên Trường một cách tự nhiên và trở nên có hồn. Giữa đời thường và thơ nó như hòa quyện trong chị tạo nên một giá trị thẩm mỹ, dễ neo đậu trong lòng người đọc, bởi những cảm xúc mộc mạc, bình dị, chân thành. Cái chân thành ấy, được trái tim một người đàn bà thấu hiểu mọi lẽ nông – sâu, được – mất, trái tim ấy rất nhạy cảm, rưng rưng khi ngẫm về mình về người! Nửa đêm/ Nửa tỉnh nửa say/ Nửa lay lắt nhớ/ Nửa thương vay đời/ Nửa đau phận bạc như vôi/ Nửa cười như rượu say người.../ Nửa đêm... (Trăn trở).

Có lẽ thế mạnh của chị là thơ lục bát, chị có hẳn 1 tập thơ lục bát (Giữa bộn bề tôi) gồm 60 bài. Không hẳn cả tập bài nào cũng hay, nhưng phải thừa nhận rằng Võ Miên Trường có một số bài lục bát viết khá thành công. Thơ lục bát dễ làm nhưng khó hay, nếu nhà thơ không có tài năng thật sự thì lục bát dễ đi vào dễ dãi, kiểu ghép vần ráp chữ. Thơ lục bát Võ Miên Trường đã không phạm vào điều đó. Tôi cho rằng chị là người làm thơ lục bát có “nghề”. Nhà thơ Võ Miên Trường có những câu lục bát, bài lục bát để lại trong lòng người đọc những dư ba. Bởi chị biết làm mới thể thơ lục bát qua cách sử sụng câu chữ, hình ảnh, tứ thơ và cách vắt dòng.

- Đêm

cào cấu những tội tình

Rách toang nỗi nhớ thương mình trắng tay

(Cánh phù du bay)

- Ai mang nắng đổ vào chiều

Mà hoàng hôn trượt nát điều răn xưa

(Tím điều răn xưa)

- Ừ thôi

Trả nắng cho ngày

Trả

Trăng cho những rằm đầy khuyết nhau

(Trả)

Từ những trải nghiệm của bản thân người đàn bà luôn chịu nhiều thua thiệt, sẵn sàng hi sinh tất cả vì gia đình, chồng con nên nhà thơ Võ Miên Trường cũng có những triết lý sâu sắc về hạnh phúc và khổ đau. Đôi lúc, nhân vật trữ tình trong thơ chị cất tiếng “riêng mang”:

Bên hiên đời ta nhặt tình hư ảo/ Kỷ niệm về xô lệch màng trăng nghiêng/ Chao chát nhớ từng đêm dài trăn trở/ Ta ngỡ ngàng đối diện nỗi niềm riêng

Giữa vành đai nỗi nhớ cứ gập ghềnh/ Từng giấc mộng chưa kịp dày đã sáng/ Thu võ vàng thương giọt sương phai úa/ Nhỏ xuống đời giọt nước mắt vương mang (Vương mang).

Trong hầu hết các sáng tác của nhà thơ Võ Miên Trường, điều dễ nhận thấy là chị đề cập nhiều đến thân phận người phụ nữ. Bởi hơn ai hết, Võ Miên Trường thấu hiểu những nỗi đau mà họ phải gánh chịu. Bởi dù gì thì người đàn bà vẫn thiệt thòi nhiều hơn so với cánh đàn ông. Nghĩ về mình, chị chợt nhận thấy thấp thoáng bóng dáng âm thầm, khổ đau của mẹ và cũng là của mình. Nhà thơ càng ngậm ngùi, xót xa, khắc khoải hơn.

Oằn lưng mẹ gánh gian nan

Lệch vai trĩu nặng lầm than cuộc đời

Tuổi xuân mẹ cũng một thời

Vì con – không biết đánh rơi lúc nào

......

Một đời dẫu đến trăm năm

Chùng chân mỏi gối vẫn đằm nét tươi

Bôn ba trên cánh đồng người

Bàn chân tứa máu gai đời mẹ tôi

(Đẫm gánh đa đoan)

Sự trở đi trở lại trong thơ chị là hình ảnh của đêm, mưa, buổi chiều... Những hình ảnh ấy gợi lên cảm giác cô đơn, trống vắng, hoang hoải, miên man, chồng chất, trùng điệp những nỗi buồn.

- Đêm nghiêng/ Mình em lật xô mình/ Độc hành/ Tìm cô đơn cứu rỗi (Đêm nghiêng).

- Hình như nỗi nhớ dậy men/ Nghe đâu gió bấc ngược đêm tìm về (Một mai em).

- Người đàn bà ngược gió/ Ngược nỗi đau/ Ve vuốt trái tim mình/ Ngược màn đêm/ Tìm về thời trinh nữ/ Đôi mắt huyền/ Giờ đã đẫm sương sa (Ngược).

- Đêm vỗ về tiếng nguyệt cầm đơn lẻ/ Khóc thương vay một thuở trót yêu người/ Một mai ư... trong nhau là không thể/ Đợi đêm dài thao thức... nguyệt cầm rơi... (Lặng lẽ đêm).

- Phố mưa xô lệch nỗi niềm/ Nghiêng vai ta gánh cả triền em xanh (Mưa phố).

- Chiều em đau một giọt mưa/ Nghiêng đời rót xuống dạ thưa cùng người (Chiều).

- Mưa ơi - từ thuở trăng đầy/ Nửa vời vợi nhớ nửa lay lắt sầu (Khúc mưa...).

- Gói thương cho kín đợi chờ/ Dốc đời mưa vẫn mịt mờ phận mưa... (Phận mưa).

- Khúc quanh nào dắt chiều vơi/ Câu thơ nhuộm tím chiều rơi mịt mùng (Lục bát).

- Em cầm chiều đẫm chạm đêm/ Đốt miền trăng lạnh sưởi êm giấc buồn (Hờn đêm).

- Ta rối bời nghiêng theo chiều biển động/ Quay hướng nào cũng vấp phải mênh mông (Biển gọi).

- Chiều rơi sợi nắng vô tình/ Vương vào mắt tím.../ chùng chình bước chân... (Chiều tím).

- Nắng chiều giọt thắm giọt loang/ Hoang mang em nhặt đa đoan buộc mình... (Chiều nắng vỡ).

*

Không phải chị kêu gào than khóc mà đó là sự bộc bạch giãi bày nỗi lòng của chị với mong muốn tìm được sự đồng cảm và tri âm. Vì thế, âm hưởng chính trong thơ Võ Miên Trường là những giai điệu trầm, buồn, nhẹ nhàng, đằm thắm, cô đơn nhưng vẫn mang vẻ đẹp trong trẻo. Nó không chỉ là nỗi niềm riêng mà thấm đẫm tâm sự chung, không chỉ nói cho mình mà nói cho người; biểu đạt nỗi nghẹn ngào, thổn thức sâu xa trong trái tim của nhân vật trữ tình. Đủ một đời vay mượn nắng mưa/ Đo khôn dại cuộc đời/ Đếm đa đoan mòn mỏi...

Một sự thật là con đường đến với hạnh phúc càng thử thách, chông gai, trầy trật bao nhiêu thì giá trị của hạnh phúc có được càng lớn lao, bền vững và đáng quý bấy nhiêu. Cuộc đời chị là một minh chứng, sau những lo toan giữa chợ đời vì sự mưu sinh, giờ chị có cuộc sống ổn định, vui vầy bên chồng con và các cháu nội, ngoại. Dẫu chưa phải là cuộc sống sung túc như nhiều gia đình khác nhưng chị có thể tự hào và hãnh diện, tự thấy phục chính mình khi chị nhìn lại đoạn đường đời mà chị đã đi qua.

Càng về sau, nhà thơ Võ Miên Trường càng hướng vào khai thác, khám phá thế giới nội tâm của chính mình. Nhà thơ đã làm cuộc hành trình để nhìn lại mình sau chặng đường dài nếm đủ những đắng chát.

Sáu mươi năm/ Dòng sông đời lẩn khuất/ Ta lênh đênh giữa đôi bờ ảo thực/ Nợ mẹ cha hình hài nguyên vẹn/ Thắt lòng khi cha mẹ từng ngày mỏng vội/ Khúc quanh đời chưa biết giấu vào đâu

Sáu mươi năm/ Người con gái năm xưa gánh vết trầm quá khứ/ Trên đôi vai gầy tất tả nắng mưa/ Đã ngấm hết vô thường/ Đã đẫm mùi khôn dại/ Đã kiệt cùng trả vay.../ Vạt hoàng hôn trái mùa vẫn ngằn ngặt nắng... (Khúc tôi).

Nghẹn ngào, trống vắng, đau buồn lần lượt hiện diện là mắc xích xuyên suốt hành trình thơ Võ Miên Trường và trở thành “tạng” thơ riêng của chị. Cái hay là dù buồn, dù tổn thương, va vấp thơ chị vẫn hiền lành, nhẹ nhàng và “RIÊNG MANG” chứ không phải kiểu rên rỉ, oán trách, đổ lỗi. Vắt kiệt nỗi buồn/ Đến tận cùng khô khốc/ Xé mây trời dệt thảm lụa xanh mơ (Ngược).

Giữa những trăn trở, thao thức, tự đối diện với chính bản thân mình, tự vấn chính mình để soi thấu, củng cố lòng tin, sưởi ấm tình người. Nhặt hoàng hôn rớt đầy tay/ Ta - người nhặt những vơi đầy trong nhau (Nhặt những vơi đầy).

Cho đến thời điểm này, Võ Miên Trường đã in 4 tập thơ. Đó là thành quả mà nhà thơ đã dày công, miệt mài gieo hạt, vun trồng trên cánh đồng chữ nghĩa. Dù chưa phải là tiếng thơ độc đáo so với những nhà thơ nữ đương thời, nhưng những gì Võ Miên Trường có được, những gì chị đã đóng góp đã tạo nên sự đa sắc hương trong dàn đồng của ca của thơ nữ Việt Nam hôm nay. Đó là điều đáng được ghi nhận ở một cây bút có tâm, sống thành thật và say mê thơ như Võ Miên Trường. Ngồi hong những con chữ phiêu linh/ Ngọt thơm - đắng đót/ Đắng giữ riêng mình/ Ngọt gửi vào thơ (Người đàn bà).

Nguồn: https://phuongnamplus.vn/

Một vài hình ảnh nhà thơ Võ Miên Trường cùng bạn văn.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm