TIN TỨC

Nhìn lại một dòng chảy thơ phổ nhạc

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-06-04 08:58:36
mail facebook google pos stwis
260 lượt xem

LÊ THIẾU NHƠN

Lấy tiêu chí ưu tiên quy tụ thơ phổ nhạc của tác giả đang sinh sống tại TP Hồ Chí Minh hoặc viết trực tiếp về TP Hồ Chí Minh, “Thơ phổ nhạc - 50 năm thành phố Hồ Chí Minh” phác họa một bức tranh nghệ thuật độc đáo. Đồng thời, cuốn sách cũng hé lộ những điều chưa biết chung quanh những ca khúc phổ thơ nổi tiếng.

Công trình “Thơ phổ nhạc - 50 năm thành phố Hồ Chí Minh” có độ dày hơn 500 trang, do Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh tổ chức biên soạn, nhằm ghi nhận và tôn vinh những ca khúc phổ thơ, từ năm 1975 đến nay.

Theo nhịp điệu sôi động của tân nhạc Việt Nam, thơ phổ nhạc đã hiện diện như một kênh thẩm mỹ có sức rung động trong đời sống tinh thần người Việt Nam. Thậm chí, thơ phổ nhạc giữ vị trí quan trọng khi nhắc đến sự nghiệp của nhiều nhạc sĩ. Cho nên, nhìn lại dòng chảy thơ phổ nhạc, công chúng có thể hình dung được diện mạo sáng tạo ở cả hai lĩnh vực thi ca và âm nhạc.

Nhạc sĩ Hoàng Hiệp (1931-2013).

Cuộc gặp gỡ giữa thơ và nhạc, đôi khi là một khoảnh khắc bất ngờ, đối với cả nhà thơ lẫn nhạc sĩ. Ví dụ, “Tiếng hát từ thành phố mang tên Người” đã vang lên suốt nửa thế kỷ vừa qua, nhưng không mấy ai tường tận sự ra đời của ca khúc này.

Tháng 5/1975, nhà thơ Đăng Trung (1939-2019) là phóng viên đi thực tế viết bài về đô thị phương Nam sau ngày giải phóng, đã có cảm hứng viết thêm những vần thơ để in kèm vào thiên ký sự. Tuy nhiên, do khuôn khổ tờ báo hạn chế, những vần thơ của Đăng Trung không thể xuất hiện trên mặt báo. Nhân dịp gặp nhạc sĩ Cao Việt Bách tại Sài Gòn cùng thời điểm ấy, nhà thơ Đăng Trung liền giới thiệu bản thảo của mình. Có được sự đồng cảm, nhạc sĩ Cao Việt Bách sáng tác nên ca khúc “Tiếng hát từ thành phố mang tên Người”.

Ca khúc “Tiếng hát từ thành phố mang tên Người” được công diễn lần đầu tiên trên Đài Tiếng nói Việt Nam, nơi nhạc sĩ Cao Việt Bách đảm nhận vai trò chỉ huy dàn nhạc. Vì sao khi non sông vừa liền một dải, nhà thơ Đăng Trung đã viết “Thành phố Hồ Chí Minh ngời ngời rực sáng tương lai”? Lúc đó, Sài Gòn chưa đổi tên Thành phố Hồ Chí Minh, nhưng nhà thơ Đăng Trung dựa vào câu thơ “Ai vô thành phố Hồ Chí Minh rực rỡ tên vàng” trong bài thơ “Ta đi tới” ra đời tháng 8/1954 của nhà thơ Tố Hữu.

Với thể loại thơ phổ nhạc, ý tứ của nhà thơ và giai điệu của nhạc sĩ đã cộng hưởng để mang đến những món quà nghệ thuật có sức lay động tâm hồn thật sâu lắng. Từ bài thơ đến ca khúc, ngỡ rất gần mà cũng rất xa. Khoảng cách vừa cụ thể vừa mơ hồ kia phụ thuộc vào sự đồng điệu giữa nhà thơ và nhạc sĩ.

Thơ có đặc thù riêng của thơ, mà nhạc có đòi hỏi riêng của nhạc. Có những bài thơ rất hay, nhưng không thể phổ nhạc. Ngược lại, có những bài thơ không có gì nổi trội trên văn bản, lại được phổ nhạc thành ca khúc đi vào lòng người. Đó là duyên phận của tác giả, và đó cũng là duyên phận của tác phẩm. Thế nhưng, căn cứ vào những ca khúc có sức lan tỏa, vẫn thấy được một quy tắc chung, khi và chỉ khi tâm hồn nhà thơ và tâm hồn nhạc sĩ có cùng một tần số xao xuyến, thì thơ phổ nhạc mới đủ sức thuyết phục công chúng.

Mỗi bài thơ đến với bạn đọc luôn gồm hai yếu tố, ngữ âm và ngữ nghĩa. Thơ được chọn phổ nhạc, thường có ưu điểm về ngữ âm hơn ngữ nghĩa. Bằng phẩm chất nghề nghiệp, nhạc sĩ nhận ra ngữ âm của bài thơ có tiết tấu để triển khai khúc thức. Và giai điệu dắt từng câu thơ đi xa. Và giai điệu đưa từng ý thơ bay cao. Không ít bài thơ được nhiều nhạc sĩ phổ nhạc với những phong cách khác nhau, không chỉ chứng minh ngôn từ mềm mại của nhà thơ, mà còn phô diễn tài năng của nhạc sĩ. Đối chiếu bài thơ và lắng nghe ca khúc ở các trường hợp thú vị ấy, càng hiểu rõ thêm sự tương tác giữa thi ca và âm nhạc.

Có nhạc sĩ phổ nguyên vẹn bài thơ, có nhạc sĩ phổ vài đoạn thơ và có nhạc sĩ chỉ cần mượn không khí trữ tình và một số chữ của bài thơ đã có thể viết nên một ca khúc quyến rũ. Chẳng có công thức nhất định cho thơ phổ nhạc. Chỉ biết rằng, nếu nhà thơ viết bài thơ để nhằm mục đích phổ nhạc, hoặc nhạc sĩ phổ nhạc để chiều chuộng sở thích của nhà thơ, thì chắc chắn không thể có tác phẩm thơ phổ nhạc có giá trị. Nói cách khác, thơ phổ nhạc không thể cưỡng cầu và cũng không thể gượng ép. Với trình độ tiếp nhận hôm nay, công chúng chẳng mấy khó khăn để phân biệt hát thơ và thơ phổ nhạc.

Trong cuốn sách “Thơ phổ nhạc - 50 năm thành phố Hồ Chí Minh”, giới mộ điệu được hiểu thêm nhiều tâm sự của những người làm nên các ca khúc nổi tiếng. Chẳng hạn, nhạc sĩ Phạm Minh Tuấn chia sẻ: “Tôi luôn mong ước được viết về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Cơ duyên gặp được bài thơ “Dấu chân phía trước” của nhà thơ Hồ Thi Ca, đã giúp tôi nói hộ nỗi lòng của con dân đất Việt dành cho vị lãnh tụ kính yêu. Khi viết, tôi đã dành nhiều nét nhạc để khắc họa hình ảnh người thanh niên Nguyễn Tất Thành một mình bôn ba khắp năm châu bốn biển tìm đường giải phóng dân tộc. Tôi chọn câu thơ “khi tôi còn là hạt bụi, Người đã lên tàu đi xa” để mở đầu bài hát, không ngờ tạo được hiệu quả ấn tượng với khán giả”.

Tương tự, nhà thơ Nguyễn Nhật Ánh có bài thơ “Thành phố tình yêu và nỗi nhớ” được phổ nhạc thành ca khúc quen thuộc, bày tỏ: “Năm 1979, chiến tranh biên giới Tây Nam nổ ra, rất nhiều thanh niên TP Hồ Chí Minh lên đường tham gia vệ quốc, trong đó đồng đội thanh niên xung phong của tôi sát cánh các đơn vị bộ đội để bắc cầu, cáng thương, tải đạn… Vì vậy, tôi viết “Mai chiến trường xa/ Dẫu nhiều gian khổ/ Trái tim thành phố/ Vẫn đập trong người/ Như là cuộc sống/ Như là tình yêu/ Như là nỗi nhớ/ Suốt đời mang theo”. Nói chung, cảm hứng sáng tác của thế hệ cầm bút chúng tôi lúc đó chủ yếu là cảm hứng công dân, gắn liền với biến động của thời cuộc, với lòng yêu nước cháy bỏng”.

Cuốn sách “Thơ phổ nhạc - 50 năm thành phố Hồ Chí Minh” cũng chứng minh nhiều nhạc sĩ đã thành danh trong bom đạn, vẫn tiếp tục cống hiến trong hòa bình. Điển hình là nhạc sĩ Hoàng Hiệp (1931-2013) từng có các ca khúc phổ thơ “Câu hò bên bờ Hiền Lương”, “Trường Sơn Đông, Trường Sơn Tây”, “Lá đỏ”, “Ngọn đèn đứng gác”, “Cô gái vót chông”, “Đất quê ta mênh mông” trong kháng chiến chống Mỹ. Sau năm 1975, nhạc sĩ Hoàng Hiệp tiếp tục chinh phục khán giả bằng những ca khúc phổ thơ như “Con đường có lá me bay” và “Mùa chim én bay” phổ thơ Diệp Minh Tuyền hoặc “Đánh mất” phổ thơ Thanh Nguyên.

Công trình phác thảo dòng chảy thơ phổ nhạc ở đô thị phương Nam.

Không ai đưa ra được công thức thành công cho một ca khúc thơ phổ nhạc, nhưng sự gặp gỡ giữa nhà thơ và nhạc sĩ trở thành một điểm hẹn nghề nghiệp thú vị. Đôi khi, thơ phổ nhạc kết nối hai thế hệ cách xa nhau về tuổi tác. Trong những tác phẩm được truy tặng Giải thưởng Nhà nước năm 2017 của nhạc sĩ Văn Chừng (1938-2006) có ca khúc “Đêm xoang Tây Nguyên” được phổ từ bài thơ của nhà thơ Đào Phong Lan (sinh năm 1975).

Vì vậy, công chúng từng nghe “Đêm xoang Tây Nguyên” sẽ thêm yêu ca khúc này khi nghe nhà thơ Đào Phong Lan bộc bạch: “Năm 1994, tôi là sinh viên năm hai Trường Viết văn Nguyễn Du trở về quê nhà Pleiku để nghỉ hè. Như thường lệ, tôi lại theo ba tôi rong ruổi những chuyến điền dã vào các buôn làng, ba tôi là nhạc sĩ nghiên cứu âm nhạc bản địa Tây Nguyên. Tôi đã đến những buôn làng người Jrai, Bahnar, ăn món thịt nướng, món cá treo gác bếp, miếng cơm gạo đỏ dẻo ngọt. Và hầu như ở đâu tôi cũng được tham dự một đêm xoang…

Những hình ảnh, âm thanh đặc biệt của những đêm xoang ấy là những ký ức đẹp đẽ. Khi trở về, tứ thơ “Đêm xoang Tây Nguyên” đã đến trong một đêm thanh vắng. Tôi viết một mạch, trong đầu văng vẳng tiếng cồng chiêng và hình ảnh những chàng trai, cô gái say sưa xoang bên ánh lửa bập bùng. Bài thơ sau đó được in trong tập “Giêng Hai” năm 1995. Nhân một dịp nhạc sĩ Văn Chừng ghé thăm gia đình, ba tôi đã tặng nhạc sĩ tập thơ này. Quay về lại Nha Trang, vài tháng sau, nhạc sĩ Văn Chừng đã gửi cho tôi nghe bài hát “Đêm xoang Tây Nguyên”. Bài hát sau đó trở nên phổ biến và được sử dụng rộng rãi tại những lễ hội trên các tỉnh Tây Nguyên, bởi giai điệu vui tươi, sôi nổi”.

Những người biên soạn “Thơ phổ nhạc - 50 năm thành phố Hồ Chí Minh” không có tham vọng tổng kết thành tựu thơ phổ nhạc ở đô thị phương Nam từ năm 1975 đến nay, mà chỉ giới thiệu một phác thảo khá khiêm tốn so với sức sống lan tỏa của rất nhiều khúc hát được sáng tác từ thơ. Bên cạnh những nhà thơ và những nhạc sĩ đã định danh, cuốn sách cũng mạnh dạn giới thiệu những tác giả ít tên tuổi, nhưng cũng đã có những tác phẩm ít nhiều khẳng định được tiêu chí nghệ thuật của thơ phổ nhạc.

Nguồn: Văn nghệ Công an

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Trăm ngàn” – Hành trình truy nguyên bản thể giữa phế tích ký ức và nỗi cô đơn hiện sinh
Bài phản biện của nhà thơ Hương Thu xung quanh việc khen chê truyện ngắn Trăm Ngàn
Xem thêm
Bi kịch tiếp nối bi kịch
Bài viết về truyện KHÚC BIỆT LY MẦU TÍM – truyện ngắn của Trầm Hương
Xem thêm
Thơ Bùi Minh Vũ từ góc nhìn địa - văn hóa
Từ góc nhìn địa – văn hóa và mỹ học sinh thái, nhà phê bình văn học Hồ Thế Hà đã có bài viết công phu, thấm đẫm cảm xúc và tư duy học thuật về thơ Bùi Minh Vũ – đặc biệt là tập Những tiếng đàn hồng (NXB Hội Nhà văn, 2023).
Xem thêm
Nhà thơ Xuân Trường – mẫn cán và lãng tử
Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm viết về “Hai vệt nắng chiều”, thơ Xuân Trường, NXB Hội Nhà Văn 2018
Xem thêm
Ánh sáng cuối chiều và ký ức người lính thi sĩ
Tập thơ Giọt nắng cuối chiều của Trần Ngọc Phượng là một tuyển lựa tâm huyết, ghi lại hành trình sống và cảm từ một đời người từng trải: từ trận mạc đến hậu chiến, từ ký ức cá nhân đến thế sự chung.
Xem thêm
Đặc trưng giọng điệu nghệ thuật trong truyện ngắn
Bậc thầy truyện ngắn Nga A.P.Chekhov (1860 - 1904) từng cho rằng: “Muốn đánh giá một nhà văn, hãy xem giọng điệu văn chương của anh ta”. Như vậy, giọng điệu văn chương (hay giọng điệu nghệ thuật) là một yếu tố rất quan trọng trong tác phẩm, nhất là trong truyện ngắn, vì những đặc điểm riêng biệt của nó.
Xem thêm
Về một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì của báo Văn nghệ (phần 2)
Sau phần đầu khiến giới văn chương phải xôn xao, TS Hà Thanh Vân tiếp tục “lên tiếng” bằng phần 2 – nhiều dẫn chứng, thuyết phục hơn và không kém phần lôi cuốn…
Xem thêm
Về một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì của báo Văn nghệ (phần 1)
Bài viết dưới đây của TS. Hà Thanh Vân là một góc nhìn thẳng thắn về chất lượng một truyện ngắn vừa đoạt giải Nhì báo Văn nghệ.
Xem thêm
KHÁT để biển khơi và CHÁY để mặt trời!
Tự ngẫm rồi thương mình từng múa may theo tiếng kèn hư danh/ Tâm biển khơi hóa ao tù, thi tài mặt trời thành đom đóm.
Xem thêm
Bài thơ ANH QUÊN của nhà thơ Phạm Đình Phú
Bài của nhà thơ Nguyễn Đình Sinh
Xem thêm
Dưới gầm trời lưu lạc – Bản ngã nhà báo trong vỏ bọc nhà văn
“Dưới gầm trời lưu lạc” không chỉ là tựa đề một tập sách bút ký xuất sắc của nhà báo Đỗ Doãn Hoàng, mà còn là một hành trình tinh thần đầy trăn trở giữa lằn ranh của báo chí và văn chương.
Xem thêm
Người thơ mang áo blouse
Bài của Đại tá nhà văn Nguyễn Minh Ngọc
Xem thêm
Xuân Trường mưa mai trong nắng chiều
Bài viết của nhà thơ Nguyễn Thanh Mừng
Xem thêm
Nụ hôn – biểu tượng của ký ức và lòng nhân hậu
Qua lăng kính bình thơ của hai nữ nhà thơ Minh Hạnh và Nguyễn Thị Phương Nam, người đọc có thể cảm nhận được những “nụ hôn” mang hình dáng đất nước
Xem thêm
Văn chương và những ngộ nhận đáng buồn
Tôi đã đọc một số bài thơ của nhà thơ Nguyễn Quang Thiều từ những năm trước, nó như có tính “dự báo”, “dọn đường” cho trường ca “Lò mổ” ra đời tạo được tiếng vang. Và thi ca với sứ mệnh thiêng liêng của nó, qua trường ca “Lò Mổ” cũng sẽ vượt qua biên giới của lý trí để tới với bạn bè năm châu bốn biển.
Xem thêm
Vai trò của chúa Trịnh với thương cảng Phố Hiến
Suốt chiều dài lịch sử dân tộc Việt Nam, địa danh Phố Hiến vừa thân thương vừa thân thuộc trong trí nhớ mọi người. Phố Hiến từng là một thương cảng lớn sầm uất và quan trọng bậc nhất của xứ Đàng ngoài (miền Bắc Việt Nam).
Xem thêm
Những nụ hôn chữa lành
Đọc tập thơ Ấm lòng những nụ hôn như thế của Phạm Đình Phú
Xem thêm
Trở lại cánh đồng thơ của nhà thơ Nguyễn Vũ Quỳnh
Nhà thơ Y Phương ở miền non nước Cao Bằng đã từng tâm niệm: “Thơ cũng giống như tình yêu. Không có sự run rẩy thì không có thơ“. Quả thực, thơ ca thực sự là kết tinh, là ngọc đọng, là phiến Kỳ nam trong rừng trầm hương, là hạt minh châu trong biển hạt trai, là tinh hoa trong vườn phương thảo.
Xem thêm
“Những nụ hôn như thế” – từ ngọn lửa yêu thương đến ngọn nguồn hy sinh
Cảm nhận về bài thơ cùng tên trong tập thơ của Phạm Đình Phú – Hội viên Hội Nhà văn TP.HCM
Xem thêm