TIN TỨC

Trần Lê Khánh: Một giây nữa là đến mai

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-05-26 10:24:02
mail facebook google pos stwis
353 lượt xem

Mai Văn Phấn

Xuất hiện trên văn đàn mới khoảng một thập kỷ gần đây, nhà thơ Trần Lê Khánh đã nhanh chóng tạo được dấu ấn riêng. Thơ anh đậm chất thiền, dung hòa triết lý phương Đông với tư duy hiện đại. Tác phẩm của anh hướng đến sự hài hòa giữa con người và vũ trụ, đồng thời khám phá chiều sâu triết lý trong những điều tưởng chừng nhỏ bé, giản dị, mở ra những tầng nghĩa phong phú. Sau tám thi tập liên tục ra mắt từ năm 2016, Trần Lê Khánh tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong năm 2024 với thi tập "Đồng" (Nxb. Văn học). Phải nói rằng thi pháp lục bát của anh đã chín muồi trong thi tập này, với cấu trúc bốn cặp câu mỗi bài, không gây cảm giác gò bó hay khiên cưỡng mà tuôn chảy tự nhiên, tự do và giàu sức gợi, mở ra không gian suy tưởng phong phú.

Bìa tập thơ Đồng

Vẫn biết với thể thơ truyền thống như lục bát, nếu không có sự sáng tạo trong thi pháp, thơ rất dễ đi vào lối mòn, chỉ là vần điệu du dương, đèm đẹp mà sáo rỗng. Song thi tập mới này của Trần Lê Khánh, gồm 100 bài thơ mang nhan đề "Xứ", được đánh số thứ tự và phân chia thành 11 chương, thực sự là một thứ rượu nồng nàn hương vị mới lạ đựng trong chiếc bình cổ quý giá.

Mở đầu chương 1 của tập thơ "Đồng" là câu lục bát “không cần đếm cho mùa xuân/ bao nhiêu con bướm chân trần lấm hoa”, mở ra một cảnh giới hoàn toàn tự nhiên, hình ảnh trong trẻo, tứ thơ nhẹ nhàng mang hơi thở mùa xuân, nơi vạn vật thảnh thơi, phơi phới, thoát khỏi sự kiềm tỏa của lý trí. Sinh vật bé nhỏ ấy, từ khoảnh khắc hiện diện, đã dẫn dắt nhà thơ vào hành trình khám phá, nơi trời đất giao hòa, muôn vật sinh sôi. Hành trình thơ Trần Lê Khánh là cuộc viễn du qua cõi người, thiên nhiên và vũ trụ, đồng thời cũng là cuộc đối thoại sâu sắc với chính mình, với nhân sinh. Mỗi bài thơ trong tập "Đồng" là một “Xứ” – tựa khoảnh khắc lắng đọng, nơi mọi hữu thể đều sống động và đượm màu suy tưởng. Hành trình bắt đầu từ “con bướm chân trần”, biểu tượng của tự do và thơ ngây, để rồi khép lại ở chương cuối với hình ảnh “những bước chân nhỏ” nhẫn nại, cần mẫn của một chú kiến: "Con kiến buộc lại lối đi/ những bước chân nhỏ như vì sao xanh".

Riêng cái nhan đề của tập thơ đã đầy ấn tượng, khơi gợi nhiều cách tiếp cận và suy ngẫm. "Đồng", theo cảm nhận của tôi, biểu đạt hành trình đa chiều: đó là quá trình quy tâm, tỉnh ngộ, thấu hiểu, trở về, thâm nhập, gói gọn, tái tạo bản thể... Và "Đồng", cũng là sự đồng hiện. Từ điểm hội tụ, đồng hiện ấy, vạn vật lại tiếp tục chuyển dịch: triển nở, lan tỏa, tan rã, khuếch tán, phân hủy, bành trướng, truyền bá, thoái trào,... mờ nhạt dần theo dòng chảy của thời gian. Chuyển dịch này tựa như những đợt gió mùa hay cơn sóng khí hậu làm thay đổi cảnh sắc thiên nhiên, tác động đến tâm lý và thể chất con người, xáo trộn mọi nhịp điệu sinh tồn.

ta về phố xá rộn người

nắng vàng nằm gãi ngọn đồi xa xa

(Xứ 99);

 

cơn mưa đổ xuống hai vai

tôi nối tôi với một vài giọt rơi

(Xứ 96)

Biến động của thiên nhiên, vũ trụ trong những câu thơ trên thấm sâu vào tâm lý, cảm xúc và nhịp điệu sống. Những chuyển dịch ấy vừa xáo động tâm hồn vừa mở ra nhận thức về sự tồn tại và mối liên hệ bất tận giữa cái tôi và thế giới. Thiên nhiên không còn là phông nền tĩnh lặng mà trở thành nguồn năng lượng, khơi dậy, thức tỉnh và hòa quyện bản thể con người với nhịp điệu miên viễn của đời sống.

Thơ Trần Lê Khánh là dòng chảy của tâm thức, dẫn dắt người đọc qua nhiều tầng không gian và thời gian. Hành trình ấy trải ra từ xa đến gần, từ sự mờ tối đến sáng rõ, từ ngoại vi đến nội tâm. Đó là quá trình thâm nhập vào tầng sâu tâm thức, nơi cảm nhận và ý niệm được tái sinh trong ánh sáng minh triết, chạm đến cốt lõi bản thể. Trên hành trình này, ngôn ngữ thơ Trần Lê Khánh như những cánh cửa hé mở, nơi từng thi ảnh chứa đựng năng lượng của sự tỉnh thức. Quá trình quy tâm của bản thể được khởi ngay từ bài thơ đầu tiên.

"sân chùa đôi dép để xa

tiếng chuông vọng tới tự va vào trời";

"nhà sư bỗng thấy vắng mình

trong yên lặng đóa hoa quỳnh nở ra"

(Xứ 01)

Hình ảnh "đôi dép" như bật dậy, biến hóa khi nghe tiếng chuông, hay "nhà sư" an trú trong tâm không tĩnh lặng, đã mở ra những tầng ý nghĩa ẩn dụ sâu xa trong trùng trùng duyên khởi. Ở đó, tâm thức con người hiện ra như một thực thể vừa độc lập vừa hòa nhập, đặt ra câu hỏi: đó là tiếng nói của cá nhân hay sự tan hòa trong dòng chảy ý niệm? Những vần thơ của Trần Lê Khánh, tuy bình dị và gắn liền với đời thường, lại ẩn chứa triết lý sâu sắc về bản thể, về mối tương quan giữa cái tôi và vũ trụ.

"rót tiếng chân vào con đường

cho đầy những chuyện bình thường cuối năm"

(Xứ 04);

"người về rót xuống cụm mây

thế là quán xá trổ đầy khách quen"

(Xứ 27)

Những câu thơ của Trần Lê Khánh phảng phất hoài niệm và khát vọng tái hồi, như một nỗ lực hòa nhập với cái nguyên sơ, thuần khiết. Anh dẫn dắt người đọc vào cõi trầm mặc và sâu lắng, nơi sự trở về không chỉ là hành động mà còn là sự thẩm thấu của ý niệm.

"nắng vàng về lót ban mai

con đường khẽ dụi lên vài bước chân

rõ ràng trong cõi trầm luân

mây đổ bóng xuống ba lần mới thôi"

(Xứ 30);

 

"mai về hớt váng bình minh

cho xanh con phố cuốn mình theo em"

(Xứ 32)

 

Những động từ như "lót", "dụi", "đổ", "hớt", "cuốn" chất chứa sự vun đầy, chu kỳ hóa của đời sống. Chúng biểu đạt một cuộc quay về mang tính vĩnh cửu, phản ánh bản chất bất biến của vòng luân hồi: trầm luân, chuyển hóa, và tái sinh. Trong đó, con người lặng lẽ để lại dấu ấn của mình, hòa quyện với dòng chảy miên viễn của vũ trụ.

"hồng hoang rục rịch heo may

gió lùa giọng nói về đầy tổ xuân

 

nhà sư đang bước sang tuần

nắng vàng xóa hết phần thân con đường"

(Xứ 41)

Hình ảnh trong đoạn thơ trên khơi mở một cảnh giới trầm mặc và uyên áo. Con người và vạn vật dường như tan hòa vào sự thuần khiết nguyên sơ. Câu thơ "gió lùa giọng nói về đầy tổ xuân" cho ta cảm giác kỳ diệu của sự trở về, diễn đạt sự vận động vi diệu của thời gian và tâm thức, nơi sự tái sinh hòa cùng nhịp thở phồn thịnh của vũ trụ.

Nhà thơ Trần Lê Khánh

Lại có những câu thơ khơi mở dòng chuyển hóa từ ý niệm đến hình hài, từ sự tái sinh trong tâm tưởng đến sự hiện diện của đời sống, gợi lên suy tư sâu sắc về cách con người biến đổi niềm tin, ký ức và cảm xúc thành những dấu vết hữu hình trong dòng chảy vô tận của thời gian:

"tháng giêng em khẩn thần linh

con rối đừng tưởng mình sinh ra rồi"

(Xứ 45);

 

"những ngày sông nhớ quê hương

ta thèm kết lại bằng khuôn mặt người"

(Xứ 58)

Chốn quy tụ trong thơ Trần Lê Khánh là những điểm đột sáng, những khoảnh khắc xuất thần, tạo ra nguồn năng lượng tâm linh:

"chùa thiêng ngọn cỏ cũng linh

ánh đèn chỉ xéo lên mình chúng sanh"

(Xứ 63)

“Ánh đèn chỉ xéo” là ngọn lửa thắp sáng trong mông lung cõi người, là ánh sáng khai minh, khải thị, chạm đến chiều sâu tâm thức, để lại một khoảng sáng lặng lẽ trong lòng người đọc.

Hay hình ảnh con nhện đầy hối hận đối diện với tội lỗi trong khoảnh khắc tĩnh lặng dưới đây:

"con nhện xưng tội trên cao

em cầm cây thước khẻ vào mông lung"

(Xứ 06)

Cây thước ở đây dường như đang đo đạc cái vô tận của đời sống và chiều sâu bản thể con người, hay chiều sâu của sự suy tư.

Những thi ảnh trong các cặp lục bát tiếp theo là các đơn vị phân mảnh, được sắp đặt trong không gian nghệ thuật hiện đại:

"trăng soi mặt giếng nước trong

còn nguyên mùi đất mà lòng vô tư"

(Xứ 03);

 

"sông còn giữ sóng nổi không

bàn tay ta vỗ lên dòng nước xanh"

(Xứ 08)

Mặt giếng và lòng người, sóng nước và tiếng vỗ của bàn tay được kết nối qua nguồn mạch tâm linh, giao thoa giữa cái thoáng qua và miên viễn.

Thơ Trần Lê Khánh thấm đẫm tư tưởng Phật giáo, thể hiện qua những chiêm nghiệm sâu sắc về vô thường, sắc-không, và buông bỏ. Tác giả khắc họa sự mong manh của đời sống thế tục, sự nhỏ bé và vô định của con người trong vũ trụ. Thơ anh là lời mời gọi hướng đến tỉnh thức, giác ngộ, và giải thoát khỏi những ràng buộc của tham, sân, si, mở ra con đường đến sự an lạc và tự tại trong tâm hồn.

"sân chùa nắng chiếu lung linh

những ngọn tre quét bóng mình khỏi nhau"

(Xứ 11)

“Sân chùa” là biểu trưng cho sự thanh tịnh và bình yên, nơi mọi vật được phản chiếu trong ánh sáng của trí tuệ và từ bi. Hình ảnh "những ngọn tre quét bóng mình khỏi nhau" gợi lên sự buông bỏ, tự giải thoát khỏi những ràng buộc và chấp niệm. Đây cũng là phép ẩn dụ cho sự tha thứ, khi con người học cách rời xa những mâu thuẫn, xóa nhòa những dấu vết của cái tôi để hòa nhập vào sự an nhiên của cõi tịnh.

Trong cảnh giới ấy, mọi xung đột, khổ đau đều là hư vô, chỉ còn lại sự giao hòa giữa con người và vũ trụ. Và đây là hình ảnh của hành trình tìm kiếm sự chiêm nghiệm nội tâm:

"tôi ngồi thắp sáng lòng tôi

linh hồn chảy giọt mồ hôi lạ lùng"

(Xứ 19);

 

"dặn người rửa sạch bàn chân

trong cơn mộng mị dễ lần ra nhau"

(Xứ 26)

Đó là quá trình soi sáng từ bên trong, sự tự nhận thức và giác ngộ, nhận ra những ảo tưởng của thế gian mà con người dễ dàng bị cuốn vào.

Sự lan tỏa và chuyển dịch từ chân thực đến mơ hồ, từ trung tâm ra ngoại biên, không chỉ phản ánh dòng chảy bất định của vũ trụ mà còn khơi gợi những tầng nghĩa khác biệt từ nhan đề "Đồng". Nhan đề này gợi lên sự hòa quyện và kết nối, nơi mọi yếu tố trong cuộc sống không ngừng tương tác, chuyển hóa và hòa nhập vào tổng thể. Đồng thời, nó nhấn mạnh sự cân bằng giữa cái cụ thể và cái mơ hồ, giữa hiện hữu và tan biến.

"có một hạt cát ra đi

bỏ lại chỗ trống cho vì sao hôm"

(Xứ 02)

Hình ảnh hạt cát gợi lên ý niệm về sự đổi mới, vòng tuần hoàn và sự vận động không ngừng của thời gian.

"một ngày chợt tẽ thành đôi

rồi chiếc nhánh mọc ra tôi như là"

(Xứ 14)

Chiếc nhánh mọc ra từ “tôi” biểu thị sự triển nở của sinh mệnh, đồng thời là dấu hiệu kết nối giữa thực tại và mơ hồ.

"mượn người cũng đã đủ lâu

những giọt nước mắt ngẩng đầu đi ra"

(Xứ 37)

Câu thơ trên mở ra khoảng trống đầy ám gợi, mở ra sự tan biến và tái sinh, làm nổi bật vòng tuần hoàn của sự sống. Qua chu kỳ sinh thành, phân rã, và hòa tan, nó dẫn dắt người đọc cảm nhận nhịp điệu vô định của "Đồng", nơi vạn vật giao thoa và biến chuyển không ngừng.

Đó là sự nhập nhòa giữa thực và mơ, giữa hữu hình và vô hình, như dòng chảy của thời gian cuốn mọi thứ vào màn sương huyền ảo:

"bóng người lẫn với mùa thu

làm sao em biết sương mù đang tan"

(Xứ 38)

Sự khiêm nhường trước vũ trụ bao la được thể hiện qua hình ảnh trả lại những gì không thuộc về mình:

"em vay mặt nước nhỏ nhoi

trả con thuyền giấy về trời một đêm"

(Xứ 40)

Hay sự tiếp nối của dòng đời, dù tổn thương nhưng vẫn không ngừng chảy, mang theo ký ức từ những lần gặp gỡ, những chia ly, những dang dở:

"trăng va phải tảng đá ngầm

con sông mang một vết bầm đi xa"

(Xứ 42);

 

"ngọn gió lẫn vào hoang vu

ta chưa kịp gửi vào thu một người"

(Xứ 48)

Có những câu thơ khơi gợi sự mất mát và chuyển hóa, khi những gì tưởng chừng vĩnh cửu lại tan biến để nhường chỗ cho một chu kỳ mới.

“nhà sư cất chiếc đèn dầu

ngọn lửa cháy đỏ lắc đầu ra đi”

(Xứ 36)

"Ngọn lửa" là đạo lý, là chân lý không bao giờ biến mất, có lúc nó chỉ tạm "ra đi", để rồi lại đến, lại thắp sáng.

“người đi qua chốn ừ ào

vết nhàu trên áo đâu hao vải mềm”

(Xứ 54)

Đó là câu triết lý về tính không, mọi thứ chỉ là tạm bợ, không thực sự thuộc về chúng ta. Hoặc một ẩn dụ về ràng buộc, tham ái và chấp trước – những mối dây kết nối dù bám víu vào đâu, cũng chỉ dẫn đến sự tan biến, để lại sự trống rỗng trước dòng chảy sinh diệt của vũ trụ:

“con nhện giăng một sợi yêu

mắc vào đâu cũng mất tiêu lòng mình”

(Xứ 57)

Một hình ảnh khác tượng trưng cho thời gian thoáng qua, nhưng cũng là sự tái tạo thế giới:

“mùa thu tàn sao quá nhanh

em lau quả đất cho xanh bầu trời”

(Xứ 53)

Và những câu thơ như "em chìm trong một mùa sương/ dấu chân in xuống con đường hiện thân” (Xứ 56) diễn tả sự hòa nhập và chuyển hóa, từ sự ra đi đến sự trở về; hoặc “bóng mình đã ngủ no nê/ nhà sư đứng dậy dắt về đỉnh non” (Xứ 73) biểu đạt sự vượt thoát khỏi bản ngã để đạt đến sự thăng hoa, giác ngộ.

Thơ Trần Lê Khánh thể hiện suy niệm triết học sâu sắc về sự sống, cái chết và mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ. Câu thơ "ta quỳ bên chiếc lá rơi/ nghìn năm mà đất trả lời chưa xong” (Xứ 88) gợi sự đối diện với vô thường và câu hỏi về sự sống, cái chết, mở ra nhãn quan triết học về bản thể con người; “nhà sư từ thuở bước qua/ con giun đất đỏ bới ra chân trời” (Xứ 89) là hình ảnh của cuộc tìm kiếm sự thật vĩnh cửu và sự giác ngộ.

Không chỉ thế, thơ anh còn kết hợp với sự dí dỏm, vừa sâu sắc vừa nhẹ nhàng, vui tươi. Sự dí dỏm này thể hiện qua cách chơi chữ, hình ảnh bất ngờ và sự đối lập giữa hiện thực và ẩn dụ. Những câu thơ như “áo em kín cổng cao tường/ kẻ trộm dễ kéo con đường ra xa” (Xứ 17); hay “tôi ngồi đỏ ửng hai tai/ em về ran rát như vài giọt mưa” (Xứ 64) là sự nghịch đảo hình ảnh, biến hiện thực thành siêu thực.

Những câu thơ tài hoa của Trần Lê Khánh mở ra những cánh cửa vô hình, dẫn dắt tâm trí vào những khoảng không khép mở đầy bất ngờ, nơi sự giao thoa giữa thực tại và siêu nhiên không ngừng chuyển động. Thi ảnh của anh ẩn chứa những lớp nghĩa song trùng, tinh tế và sâu lắng, như trong câu“nhà sư đi giữa bụi trần/ nắng vàng nằm lót bàn chân trên đường” (Xứ 80), thi ảnh gợi lên một hành trình từ thực tại (“bụi trần”) đến giác ngộ (“nắng vàng”); hoặc trong câu “bóng đêm và những ngọn đèn/ cùng chia nhau giữ người quen bên đường” (Xứ 87), thi ảnh thể hiện sự giao thoa giữa vô thường và hữu thường, giữa bóng tối và ánh sáng.

Sự dân dã trong thơ Trần Lê Khánh tạo ra cảnh trí gần gũi, giản dị, nhưng ẩn chứa những suy tư sâu sắc về cuộc sống.

“người đàn bà lặt mớ rau

bỏ vào nồi nước đặt sau đời mình”

(Xứ 07)

 

“hỡi người chóng chán cả thèm

cuộc đời là lúc người quen cạn dần”

(Xứ 10)

Những hình ảnh đời thường trong "Đồng" không chỉ phản ánh thực tại mà còn mở ra những tầng ý nghĩa về không-thời gian và mối quan hệ trong đại thiên thế giới. "Một giây nữa là đến mai/ ngọn khói lơ lửng khoan thai thả hình" (Xứ 34). Đó là khoảnh khắc tâm thức con người bỗng trở nên sáng tỏ, khi mọi lớp màn vô minh, tham ái, và chấp ngã tan biến. Không còn sự xao động, tâm trí chìm vào tĩnh lặng, nơi chỉ còn lại sự sáng suốt nguyên sơ. Trong phút giây ấy, mọi vọng tưởng lặng im; tham, sân, si nhường chỗ cho tỉnh thức. Con người chợt nhận ra bản chất vô thường, vô ngã của vạn pháp, nhận ra mình không còn tách biệt với vũ trụ. Ranh giới giữa "cái tôi" và "cái khác" mờ dần, để rồi bản thể hòa tan vào dòng chảy vô hạn của chân lý. Tôi chọn câu thơ trong "Xứ 34" làm nhan đề bài viết này, bởi nó soi sáng con đường sáng tạo của Trần Lê Khánh, một con đường thấm đẫm sự tỉnh thức và hòa điệu với vũ trụ.

Với thể lục bát truyền thống, Trần Lê Khánh vừa gìn giữ giá trị cốt lõi vừa tái tạo nó trong cấu trúc hiện đại, mang đến nhịp điệu phóng khoáng và nghệ thuật tu từ sáng tạo. Những hình ảnh trong thơ đôi khi thay đổi bất ngờ, tạo ấn tượng mạnh và khơi dậy những cảm xúc sâu lắng nơi người đọc. Thi tứ đôi lúc tưởng chừng vu vơ, nhưng lại bất ngờ dẫn dắt vào những triết lý sâu sắc, khiến người đọc suy ngẫm về sự tồn tại, về mối tương quan giữa hữu hạn và vô hạn. Tác giả kết hợp vẻ đẹp cổ điển với nét phóng khoáng hiện đại, đôi lúc mang sự chênh vênh, nhưng chính sự chênh vênh ấy lại trở nên quyến rũ, dẫn dụ người đọc vào trạng thái cân bằng, chiêm nghiệm và lắng đọng. Tập thơ "Đồng" của Trần Lê Khánh mở ra một cánh cửa nghệ thuật độc đáo, nơi thơ ca trở thành không gian suy niệm, kết nối sâu sắc giữa con người, thiên nhiên và vũ trụ.

M.V.P

Bài viết liên quan

Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm