TIN TỨC

Trần Lê Khánh: Một giây nữa là đến mai

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-05-26 10:24:02
mail facebook google pos stwis
427 lượt xem

Mai Văn Phấn

Xuất hiện trên văn đàn mới khoảng một thập kỷ gần đây, nhà thơ Trần Lê Khánh đã nhanh chóng tạo được dấu ấn riêng. Thơ anh đậm chất thiền, dung hòa triết lý phương Đông với tư duy hiện đại. Tác phẩm của anh hướng đến sự hài hòa giữa con người và vũ trụ, đồng thời khám phá chiều sâu triết lý trong những điều tưởng chừng nhỏ bé, giản dị, mở ra những tầng nghĩa phong phú. Sau tám thi tập liên tục ra mắt từ năm 2016, Trần Lê Khánh tiếp tục khẳng định vị thế của mình trong năm 2024 với thi tập "Đồng" (Nxb. Văn học). Phải nói rằng thi pháp lục bát của anh đã chín muồi trong thi tập này, với cấu trúc bốn cặp câu mỗi bài, không gây cảm giác gò bó hay khiên cưỡng mà tuôn chảy tự nhiên, tự do và giàu sức gợi, mở ra không gian suy tưởng phong phú.

Bìa tập thơ Đồng

Vẫn biết với thể thơ truyền thống như lục bát, nếu không có sự sáng tạo trong thi pháp, thơ rất dễ đi vào lối mòn, chỉ là vần điệu du dương, đèm đẹp mà sáo rỗng. Song thi tập mới này của Trần Lê Khánh, gồm 100 bài thơ mang nhan đề "Xứ", được đánh số thứ tự và phân chia thành 11 chương, thực sự là một thứ rượu nồng nàn hương vị mới lạ đựng trong chiếc bình cổ quý giá.

Mở đầu chương 1 của tập thơ "Đồng" là câu lục bát “không cần đếm cho mùa xuân/ bao nhiêu con bướm chân trần lấm hoa”, mở ra một cảnh giới hoàn toàn tự nhiên, hình ảnh trong trẻo, tứ thơ nhẹ nhàng mang hơi thở mùa xuân, nơi vạn vật thảnh thơi, phơi phới, thoát khỏi sự kiềm tỏa của lý trí. Sinh vật bé nhỏ ấy, từ khoảnh khắc hiện diện, đã dẫn dắt nhà thơ vào hành trình khám phá, nơi trời đất giao hòa, muôn vật sinh sôi. Hành trình thơ Trần Lê Khánh là cuộc viễn du qua cõi người, thiên nhiên và vũ trụ, đồng thời cũng là cuộc đối thoại sâu sắc với chính mình, với nhân sinh. Mỗi bài thơ trong tập "Đồng" là một “Xứ” – tựa khoảnh khắc lắng đọng, nơi mọi hữu thể đều sống động và đượm màu suy tưởng. Hành trình bắt đầu từ “con bướm chân trần”, biểu tượng của tự do và thơ ngây, để rồi khép lại ở chương cuối với hình ảnh “những bước chân nhỏ” nhẫn nại, cần mẫn của một chú kiến: "Con kiến buộc lại lối đi/ những bước chân nhỏ như vì sao xanh".

Riêng cái nhan đề của tập thơ đã đầy ấn tượng, khơi gợi nhiều cách tiếp cận và suy ngẫm. "Đồng", theo cảm nhận của tôi, biểu đạt hành trình đa chiều: đó là quá trình quy tâm, tỉnh ngộ, thấu hiểu, trở về, thâm nhập, gói gọn, tái tạo bản thể... Và "Đồng", cũng là sự đồng hiện. Từ điểm hội tụ, đồng hiện ấy, vạn vật lại tiếp tục chuyển dịch: triển nở, lan tỏa, tan rã, khuếch tán, phân hủy, bành trướng, truyền bá, thoái trào,... mờ nhạt dần theo dòng chảy của thời gian. Chuyển dịch này tựa như những đợt gió mùa hay cơn sóng khí hậu làm thay đổi cảnh sắc thiên nhiên, tác động đến tâm lý và thể chất con người, xáo trộn mọi nhịp điệu sinh tồn.

ta về phố xá rộn người

nắng vàng nằm gãi ngọn đồi xa xa

(Xứ 99);

 

cơn mưa đổ xuống hai vai

tôi nối tôi với một vài giọt rơi

(Xứ 96)

Biến động của thiên nhiên, vũ trụ trong những câu thơ trên thấm sâu vào tâm lý, cảm xúc và nhịp điệu sống. Những chuyển dịch ấy vừa xáo động tâm hồn vừa mở ra nhận thức về sự tồn tại và mối liên hệ bất tận giữa cái tôi và thế giới. Thiên nhiên không còn là phông nền tĩnh lặng mà trở thành nguồn năng lượng, khơi dậy, thức tỉnh và hòa quyện bản thể con người với nhịp điệu miên viễn của đời sống.

Thơ Trần Lê Khánh là dòng chảy của tâm thức, dẫn dắt người đọc qua nhiều tầng không gian và thời gian. Hành trình ấy trải ra từ xa đến gần, từ sự mờ tối đến sáng rõ, từ ngoại vi đến nội tâm. Đó là quá trình thâm nhập vào tầng sâu tâm thức, nơi cảm nhận và ý niệm được tái sinh trong ánh sáng minh triết, chạm đến cốt lõi bản thể. Trên hành trình này, ngôn ngữ thơ Trần Lê Khánh như những cánh cửa hé mở, nơi từng thi ảnh chứa đựng năng lượng của sự tỉnh thức. Quá trình quy tâm của bản thể được khởi ngay từ bài thơ đầu tiên.

"sân chùa đôi dép để xa

tiếng chuông vọng tới tự va vào trời";

"nhà sư bỗng thấy vắng mình

trong yên lặng đóa hoa quỳnh nở ra"

(Xứ 01)

Hình ảnh "đôi dép" như bật dậy, biến hóa khi nghe tiếng chuông, hay "nhà sư" an trú trong tâm không tĩnh lặng, đã mở ra những tầng ý nghĩa ẩn dụ sâu xa trong trùng trùng duyên khởi. Ở đó, tâm thức con người hiện ra như một thực thể vừa độc lập vừa hòa nhập, đặt ra câu hỏi: đó là tiếng nói của cá nhân hay sự tan hòa trong dòng chảy ý niệm? Những vần thơ của Trần Lê Khánh, tuy bình dị và gắn liền với đời thường, lại ẩn chứa triết lý sâu sắc về bản thể, về mối tương quan giữa cái tôi và vũ trụ.

"rót tiếng chân vào con đường

cho đầy những chuyện bình thường cuối năm"

(Xứ 04);

"người về rót xuống cụm mây

thế là quán xá trổ đầy khách quen"

(Xứ 27)

Những câu thơ của Trần Lê Khánh phảng phất hoài niệm và khát vọng tái hồi, như một nỗ lực hòa nhập với cái nguyên sơ, thuần khiết. Anh dẫn dắt người đọc vào cõi trầm mặc và sâu lắng, nơi sự trở về không chỉ là hành động mà còn là sự thẩm thấu của ý niệm.

"nắng vàng về lót ban mai

con đường khẽ dụi lên vài bước chân

rõ ràng trong cõi trầm luân

mây đổ bóng xuống ba lần mới thôi"

(Xứ 30);

 

"mai về hớt váng bình minh

cho xanh con phố cuốn mình theo em"

(Xứ 32)

 

Những động từ như "lót", "dụi", "đổ", "hớt", "cuốn" chất chứa sự vun đầy, chu kỳ hóa của đời sống. Chúng biểu đạt một cuộc quay về mang tính vĩnh cửu, phản ánh bản chất bất biến của vòng luân hồi: trầm luân, chuyển hóa, và tái sinh. Trong đó, con người lặng lẽ để lại dấu ấn của mình, hòa quyện với dòng chảy miên viễn của vũ trụ.

"hồng hoang rục rịch heo may

gió lùa giọng nói về đầy tổ xuân

 

nhà sư đang bước sang tuần

nắng vàng xóa hết phần thân con đường"

(Xứ 41)

Hình ảnh trong đoạn thơ trên khơi mở một cảnh giới trầm mặc và uyên áo. Con người và vạn vật dường như tan hòa vào sự thuần khiết nguyên sơ. Câu thơ "gió lùa giọng nói về đầy tổ xuân" cho ta cảm giác kỳ diệu của sự trở về, diễn đạt sự vận động vi diệu của thời gian và tâm thức, nơi sự tái sinh hòa cùng nhịp thở phồn thịnh của vũ trụ.

Nhà thơ Trần Lê Khánh

Lại có những câu thơ khơi mở dòng chuyển hóa từ ý niệm đến hình hài, từ sự tái sinh trong tâm tưởng đến sự hiện diện của đời sống, gợi lên suy tư sâu sắc về cách con người biến đổi niềm tin, ký ức và cảm xúc thành những dấu vết hữu hình trong dòng chảy vô tận của thời gian:

"tháng giêng em khẩn thần linh

con rối đừng tưởng mình sinh ra rồi"

(Xứ 45);

 

"những ngày sông nhớ quê hương

ta thèm kết lại bằng khuôn mặt người"

(Xứ 58)

Chốn quy tụ trong thơ Trần Lê Khánh là những điểm đột sáng, những khoảnh khắc xuất thần, tạo ra nguồn năng lượng tâm linh:

"chùa thiêng ngọn cỏ cũng linh

ánh đèn chỉ xéo lên mình chúng sanh"

(Xứ 63)

“Ánh đèn chỉ xéo” là ngọn lửa thắp sáng trong mông lung cõi người, là ánh sáng khai minh, khải thị, chạm đến chiều sâu tâm thức, để lại một khoảng sáng lặng lẽ trong lòng người đọc.

Hay hình ảnh con nhện đầy hối hận đối diện với tội lỗi trong khoảnh khắc tĩnh lặng dưới đây:

"con nhện xưng tội trên cao

em cầm cây thước khẻ vào mông lung"

(Xứ 06)

Cây thước ở đây dường như đang đo đạc cái vô tận của đời sống và chiều sâu bản thể con người, hay chiều sâu của sự suy tư.

Những thi ảnh trong các cặp lục bát tiếp theo là các đơn vị phân mảnh, được sắp đặt trong không gian nghệ thuật hiện đại:

"trăng soi mặt giếng nước trong

còn nguyên mùi đất mà lòng vô tư"

(Xứ 03);

 

"sông còn giữ sóng nổi không

bàn tay ta vỗ lên dòng nước xanh"

(Xứ 08)

Mặt giếng và lòng người, sóng nước và tiếng vỗ của bàn tay được kết nối qua nguồn mạch tâm linh, giao thoa giữa cái thoáng qua và miên viễn.

Thơ Trần Lê Khánh thấm đẫm tư tưởng Phật giáo, thể hiện qua những chiêm nghiệm sâu sắc về vô thường, sắc-không, và buông bỏ. Tác giả khắc họa sự mong manh của đời sống thế tục, sự nhỏ bé và vô định của con người trong vũ trụ. Thơ anh là lời mời gọi hướng đến tỉnh thức, giác ngộ, và giải thoát khỏi những ràng buộc của tham, sân, si, mở ra con đường đến sự an lạc và tự tại trong tâm hồn.

"sân chùa nắng chiếu lung linh

những ngọn tre quét bóng mình khỏi nhau"

(Xứ 11)

“Sân chùa” là biểu trưng cho sự thanh tịnh và bình yên, nơi mọi vật được phản chiếu trong ánh sáng của trí tuệ và từ bi. Hình ảnh "những ngọn tre quét bóng mình khỏi nhau" gợi lên sự buông bỏ, tự giải thoát khỏi những ràng buộc và chấp niệm. Đây cũng là phép ẩn dụ cho sự tha thứ, khi con người học cách rời xa những mâu thuẫn, xóa nhòa những dấu vết của cái tôi để hòa nhập vào sự an nhiên của cõi tịnh.

Trong cảnh giới ấy, mọi xung đột, khổ đau đều là hư vô, chỉ còn lại sự giao hòa giữa con người và vũ trụ. Và đây là hình ảnh của hành trình tìm kiếm sự chiêm nghiệm nội tâm:

"tôi ngồi thắp sáng lòng tôi

linh hồn chảy giọt mồ hôi lạ lùng"

(Xứ 19);

 

"dặn người rửa sạch bàn chân

trong cơn mộng mị dễ lần ra nhau"

(Xứ 26)

Đó là quá trình soi sáng từ bên trong, sự tự nhận thức và giác ngộ, nhận ra những ảo tưởng của thế gian mà con người dễ dàng bị cuốn vào.

Sự lan tỏa và chuyển dịch từ chân thực đến mơ hồ, từ trung tâm ra ngoại biên, không chỉ phản ánh dòng chảy bất định của vũ trụ mà còn khơi gợi những tầng nghĩa khác biệt từ nhan đề "Đồng". Nhan đề này gợi lên sự hòa quyện và kết nối, nơi mọi yếu tố trong cuộc sống không ngừng tương tác, chuyển hóa và hòa nhập vào tổng thể. Đồng thời, nó nhấn mạnh sự cân bằng giữa cái cụ thể và cái mơ hồ, giữa hiện hữu và tan biến.

"có một hạt cát ra đi

bỏ lại chỗ trống cho vì sao hôm"

(Xứ 02)

Hình ảnh hạt cát gợi lên ý niệm về sự đổi mới, vòng tuần hoàn và sự vận động không ngừng của thời gian.

"một ngày chợt tẽ thành đôi

rồi chiếc nhánh mọc ra tôi như là"

(Xứ 14)

Chiếc nhánh mọc ra từ “tôi” biểu thị sự triển nở của sinh mệnh, đồng thời là dấu hiệu kết nối giữa thực tại và mơ hồ.

"mượn người cũng đã đủ lâu

những giọt nước mắt ngẩng đầu đi ra"

(Xứ 37)

Câu thơ trên mở ra khoảng trống đầy ám gợi, mở ra sự tan biến và tái sinh, làm nổi bật vòng tuần hoàn của sự sống. Qua chu kỳ sinh thành, phân rã, và hòa tan, nó dẫn dắt người đọc cảm nhận nhịp điệu vô định của "Đồng", nơi vạn vật giao thoa và biến chuyển không ngừng.

Đó là sự nhập nhòa giữa thực và mơ, giữa hữu hình và vô hình, như dòng chảy của thời gian cuốn mọi thứ vào màn sương huyền ảo:

"bóng người lẫn với mùa thu

làm sao em biết sương mù đang tan"

(Xứ 38)

Sự khiêm nhường trước vũ trụ bao la được thể hiện qua hình ảnh trả lại những gì không thuộc về mình:

"em vay mặt nước nhỏ nhoi

trả con thuyền giấy về trời một đêm"

(Xứ 40)

Hay sự tiếp nối của dòng đời, dù tổn thương nhưng vẫn không ngừng chảy, mang theo ký ức từ những lần gặp gỡ, những chia ly, những dang dở:

"trăng va phải tảng đá ngầm

con sông mang một vết bầm đi xa"

(Xứ 42);

 

"ngọn gió lẫn vào hoang vu

ta chưa kịp gửi vào thu một người"

(Xứ 48)

Có những câu thơ khơi gợi sự mất mát và chuyển hóa, khi những gì tưởng chừng vĩnh cửu lại tan biến để nhường chỗ cho một chu kỳ mới.

“nhà sư cất chiếc đèn dầu

ngọn lửa cháy đỏ lắc đầu ra đi”

(Xứ 36)

"Ngọn lửa" là đạo lý, là chân lý không bao giờ biến mất, có lúc nó chỉ tạm "ra đi", để rồi lại đến, lại thắp sáng.

“người đi qua chốn ừ ào

vết nhàu trên áo đâu hao vải mềm”

(Xứ 54)

Đó là câu triết lý về tính không, mọi thứ chỉ là tạm bợ, không thực sự thuộc về chúng ta. Hoặc một ẩn dụ về ràng buộc, tham ái và chấp trước – những mối dây kết nối dù bám víu vào đâu, cũng chỉ dẫn đến sự tan biến, để lại sự trống rỗng trước dòng chảy sinh diệt của vũ trụ:

“con nhện giăng một sợi yêu

mắc vào đâu cũng mất tiêu lòng mình”

(Xứ 57)

Một hình ảnh khác tượng trưng cho thời gian thoáng qua, nhưng cũng là sự tái tạo thế giới:

“mùa thu tàn sao quá nhanh

em lau quả đất cho xanh bầu trời”

(Xứ 53)

Và những câu thơ như "em chìm trong một mùa sương/ dấu chân in xuống con đường hiện thân” (Xứ 56) diễn tả sự hòa nhập và chuyển hóa, từ sự ra đi đến sự trở về; hoặc “bóng mình đã ngủ no nê/ nhà sư đứng dậy dắt về đỉnh non” (Xứ 73) biểu đạt sự vượt thoát khỏi bản ngã để đạt đến sự thăng hoa, giác ngộ.

Thơ Trần Lê Khánh thể hiện suy niệm triết học sâu sắc về sự sống, cái chết và mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên, vũ trụ. Câu thơ "ta quỳ bên chiếc lá rơi/ nghìn năm mà đất trả lời chưa xong” (Xứ 88) gợi sự đối diện với vô thường và câu hỏi về sự sống, cái chết, mở ra nhãn quan triết học về bản thể con người; “nhà sư từ thuở bước qua/ con giun đất đỏ bới ra chân trời” (Xứ 89) là hình ảnh của cuộc tìm kiếm sự thật vĩnh cửu và sự giác ngộ.

Không chỉ thế, thơ anh còn kết hợp với sự dí dỏm, vừa sâu sắc vừa nhẹ nhàng, vui tươi. Sự dí dỏm này thể hiện qua cách chơi chữ, hình ảnh bất ngờ và sự đối lập giữa hiện thực và ẩn dụ. Những câu thơ như “áo em kín cổng cao tường/ kẻ trộm dễ kéo con đường ra xa” (Xứ 17); hay “tôi ngồi đỏ ửng hai tai/ em về ran rát như vài giọt mưa” (Xứ 64) là sự nghịch đảo hình ảnh, biến hiện thực thành siêu thực.

Những câu thơ tài hoa của Trần Lê Khánh mở ra những cánh cửa vô hình, dẫn dắt tâm trí vào những khoảng không khép mở đầy bất ngờ, nơi sự giao thoa giữa thực tại và siêu nhiên không ngừng chuyển động. Thi ảnh của anh ẩn chứa những lớp nghĩa song trùng, tinh tế và sâu lắng, như trong câu“nhà sư đi giữa bụi trần/ nắng vàng nằm lót bàn chân trên đường” (Xứ 80), thi ảnh gợi lên một hành trình từ thực tại (“bụi trần”) đến giác ngộ (“nắng vàng”); hoặc trong câu “bóng đêm và những ngọn đèn/ cùng chia nhau giữ người quen bên đường” (Xứ 87), thi ảnh thể hiện sự giao thoa giữa vô thường và hữu thường, giữa bóng tối và ánh sáng.

Sự dân dã trong thơ Trần Lê Khánh tạo ra cảnh trí gần gũi, giản dị, nhưng ẩn chứa những suy tư sâu sắc về cuộc sống.

“người đàn bà lặt mớ rau

bỏ vào nồi nước đặt sau đời mình”

(Xứ 07)

 

“hỡi người chóng chán cả thèm

cuộc đời là lúc người quen cạn dần”

(Xứ 10)

Những hình ảnh đời thường trong "Đồng" không chỉ phản ánh thực tại mà còn mở ra những tầng ý nghĩa về không-thời gian và mối quan hệ trong đại thiên thế giới. "Một giây nữa là đến mai/ ngọn khói lơ lửng khoan thai thả hình" (Xứ 34). Đó là khoảnh khắc tâm thức con người bỗng trở nên sáng tỏ, khi mọi lớp màn vô minh, tham ái, và chấp ngã tan biến. Không còn sự xao động, tâm trí chìm vào tĩnh lặng, nơi chỉ còn lại sự sáng suốt nguyên sơ. Trong phút giây ấy, mọi vọng tưởng lặng im; tham, sân, si nhường chỗ cho tỉnh thức. Con người chợt nhận ra bản chất vô thường, vô ngã của vạn pháp, nhận ra mình không còn tách biệt với vũ trụ. Ranh giới giữa "cái tôi" và "cái khác" mờ dần, để rồi bản thể hòa tan vào dòng chảy vô hạn của chân lý. Tôi chọn câu thơ trong "Xứ 34" làm nhan đề bài viết này, bởi nó soi sáng con đường sáng tạo của Trần Lê Khánh, một con đường thấm đẫm sự tỉnh thức và hòa điệu với vũ trụ.

Với thể lục bát truyền thống, Trần Lê Khánh vừa gìn giữ giá trị cốt lõi vừa tái tạo nó trong cấu trúc hiện đại, mang đến nhịp điệu phóng khoáng và nghệ thuật tu từ sáng tạo. Những hình ảnh trong thơ đôi khi thay đổi bất ngờ, tạo ấn tượng mạnh và khơi dậy những cảm xúc sâu lắng nơi người đọc. Thi tứ đôi lúc tưởng chừng vu vơ, nhưng lại bất ngờ dẫn dắt vào những triết lý sâu sắc, khiến người đọc suy ngẫm về sự tồn tại, về mối tương quan giữa hữu hạn và vô hạn. Tác giả kết hợp vẻ đẹp cổ điển với nét phóng khoáng hiện đại, đôi lúc mang sự chênh vênh, nhưng chính sự chênh vênh ấy lại trở nên quyến rũ, dẫn dụ người đọc vào trạng thái cân bằng, chiêm nghiệm và lắng đọng. Tập thơ "Đồng" của Trần Lê Khánh mở ra một cánh cửa nghệ thuật độc đáo, nơi thơ ca trở thành không gian suy niệm, kết nối sâu sắc giữa con người, thiên nhiên và vũ trụ.

M.V.P

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm