TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Hư Thực: Lối viết dấn thân ấn tượng, về nhân sinh và nghệ thuật trong một thế giới đa loài

Hư Thực: Lối viết dấn thân ấn tượng, về nhân sinh và nghệ thuật trong một thế giới đa loài

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-05-25 16:11:01
mail facebook google pos stwis
291 lượt xem

TS. Nguyễn Thùy Trang

Trong hành trình diễn tiến của nhân loại, viết không chỉ là một hình thức giao tiếp mà còn là cách để con người lưu giữ, truyền tải tri thức và thể hiện bản thân. Do đó, viết gắn liền với đời sống con người, trở thành một phần không thể thiếu trong quá trình tồn tại, phát triển. Diêm Liên Khoa từng tâm niệm: “Sống là không thể không viết và tất yếu phải viết”[1]. Với nhà văn, việc cầm bút để họa lên bức tranh nhân sinh - xã hội, qua đó bày tỏ suy nghĩ, quan niệm của mình như một nhu cầu tất yếu, một sứ mệnh thiêng liêng. Là tiểu thuyết đầu tay của Phùng Văn Khai, Hư thực - đúng như tiêu đề tác phẩm - mở ra một thế giới của những điều mờ ảo, huyễn hoặc. Hình như, hiểu được lẽ “nhân sinh như mộng, văn tại kì nhân”, nên trên con đường dẫn vào nghiệp viết, Phùng Văn Khai đã dành những dòng chữ đầu tiên để chuyển tải cuộc đời tựa giấc mộng, văn chương chính là phần tinh hoa nằm trong đó.

Nếu để tìm một tiểu thuyết đọc để giải trí, thưởng ngoạn, Hư thực của Phùng Văn Khai sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu này. Vì tác phẩm không dễ thẩm, nặng về suy tư, đòi hỏi sự tập trung cao độ và khả năng phán đoán linh hoạt mới có thể nắm bắt được mạch ngầm ẩn ý sau từng lớp chữ. Bước vào trang văn, độc giả như lạc giữa ma trận dòng chảy ý thức, nhưng nếu bền bỉ kết nối, chúng ta sẽ khám phá được nhiều tầng nghĩa phong phú mà tiểu thuyết mang lại. “Hư thực” chính là sự phản tư nghệ thuật và truy cầu chân lí của nhà văn Phùng Văn Khai.

Qua tiểu thuyết, Phùng Văn Khai cho thấy thế giới được lập nên từ những giả tưởng và mộng mị. Khó có điều gì khẳng định tính chính xác và có thực trong tác phẩm. Nhà văn luôn đặt các tình huống trên hai mặt, khi ngỡ là thực, khi tựa nằm mơ. Tiểu thuyết mở đầu bằng hành trình đến với rừng núi hoang vu của hai nhân vật họ Đào và Y. Mục đích của chuyến đi thoạt tiên được đề ra rất cụ thể: thu thập thông tin cho số báo mới, tìm kiếm tư liệu sáng tác. Tuy nhiên, các sự kiện, hành động, việc làm diễn ra đều luôn đan cài với những giấc mơ, những điều kì bí, lẫn lộn thực và ảo. Chối từ khoác cho tiểu thuyết một khung sườn chắc chắn, kết cấu rõ ràng, Hư thực không có cốt truyện, các chương không được gọi tên, tự liên đới giao thoa bằng sự hư ảo như những đám mây lửng lơ vô tình tạo hình thái trên bầu trời.

Phùng Văn Khai bày tỏ một quan niệm nhân sinh về sự vô thường của đời người. Hai nhân vật trung tâm họ Đào và Y được xem như sợi dây kết nối các tình huống truyện. Thực ra cả hai đều khá nhòe mờ giữa hỗn độn sự kiện. Bởi nhà văn đã tiến hành “tẩy trắng” nhân vật, tước bỏ danh tính, biến họ thành những con người khá chung chung qua vài nét phác thảo: “họ Đào, thân cô thế cô, bấp bênh nghề ngỗng, lang bạt kỳ hồ, gia đình xa vắng, vợ con không màng, tiền tài im lặng, trú ngụ thất thường, độc thân hơn bốn mươi năm lại tội nợ cầm bút viết văn, lại viết không xu thời nịnh thế thì kiếp người có khác gì kiếp bướm, như có như không, có cũng như không ở cuộc đời này”. Còn Y, đồng nghiệp với họ Đào, dù có gia đình, cơ quan đoàn thể, nhưng xem như thiếu mật thiết, luôn mang cảm giác cô đơn, hoang vắng của kiếp người. “Y và họ Đào thường ẩn vào cuộc sống nội tâm, tránh va chạm, tiếp xúc và lặng lẽ sáng tác. Cuộc đời này không dành cho Y và gã? Y và gã đã làm gì sai, đã làm gì động chạm đến quyền lợi của ai đó? Y mơ hồ hiểu ra mình không mấy ăn nhập ở cuộc sống này từ lâu”. Điểm nhấn để khơi lẩy chiều sâu nội tâm nhân vật chính là việc nhà văn tạo hai bối cảnh đắc địa: đẩy họ vào chốn bức bối, bất định trên con tàu và chốn linh thiêng, kì bí rừng núi để diễn giải những cảm xúc đa mang. Cả hai bước lên con tàu được hình dung như chở đến địa điểm họ tác nghiệp. “Cuộc đi này ngoài việc hoàn thành bài ký vùng biên viễn cho số báo Tết, Y còn thu thập tài liệu cho cuốn tiểu thuyết đang viết”. Song, đó còn là con tàu của ý niệm, cũng là con tàu cuộc đời mỗi người. Con tàu đơn độc lao mình trong đêm đen về nơi vô định, chở theo hai kẻ cũng đang cảm thấy cuộc đời thăm thẳm, hoang liêu. Tại núi rừng, điều chờ đợi họ không chỉ là chất liệu sinh động của cuộc sống thâm sơn cùng cốc, mà nó chứa đựng bản nguyên hoang sơ của con người và tự nhiên.

T.S Nguyễn Thùy Trang

Móc nối từng câu chuyện là sự hiện diện của những nhân vật hết sức đặc biệt: cô gái trong rừng, người đàn bà điên, người đàn ông dưới gầm cầu và con chó, hai ông bà già ở căn nhà lụp xụp, đạo quân đen quân vàng giữa lòng sông, những người đàn bà làm nghề ăn sương ở dãy trọ ngoại ô, những đứa trẻ làng Bái,... Dường như, giữa các nhân vật này không có mối quan hệ với nhau. Họ được tái hiện, hình dung qua trí nhớ, hoài niệm, tâm tư của Y và họ Đào. Điểm chung giữa họ là sự bất bình thường của đời sống, cái thiếu khuyết trong tâm hồn và mong manh của nhân sinh. Hơn hết, họ đều khát khao một điều gì không rõ, đơn thuần như muốn được khỏa lấp nỗi lòng, mong được thấu hiểu nỗi đau và cô đơn, nỗ lực thoát khỏi tâm thế chông chênh giữa đời. Từ đó, các nhân vật trở thành những hình tượng tiêu biểu cho từng khía cạnh đa dạng trong hoạt cảnh cõi thế. Họ Đào và Y đại diện cho những con người luôn tìm kiếm danh tính và biến chuyển trong nhận thức. Người đàn bà rừng đem lại sự gắn kết giữa con người và thiên nhiên, còn người đàn bà điên là hiện thân của những mất mát và bi kịch cá nhân. Phùng Văn Khai không xây dựng nhân vật theo cách thông thường. Thay vào đó, mọi hình tượng trong Hư thực đều tồn tại ở trạng thái phiếm định, biến hóa liên tục, không có ranh giới rõ ràng giữa người/ ma, người/ thú. “Con người mãi mãi là một bí mật không thể giải mã”. Chính cách tiếp cận này đã tạo nên một hiệu ứng nghệ thuật đặc biệt, khiến người đọc cảm nhận tác phẩm như một dòng chảy của những mảnh ghép kí ức, chuỗi ảo ảnh tưởng chừng rời rạc, bí hiểm nhưng lại liên kết với nhau bằng những sợi dây vô hình của nội tâm, nhằm giải mã bản đồ tiềm thức.

Đặt các nhân vật vào bối cảnh xa cách văn minh - văn hóa, Phùng Văn Khai còn bày tỏ quan niệm nhân sinh trong một thế giới đa loài. Đứng trước thiên nhiên rộng lớn và nhiều bất ngờ, con người mất đi vị thế chủ động, chinh phục, tấn công. “Giữa chốn rừng khuya, Y có cảm giác xung quanh, trong bóng tối âm u đang lạo xạo một cách bí ẩn, bất trắc”. “Những cánh rừng nham nhở, loang lổ, mịt mùng, tối thẫm chìm trong tịch mịch”. Tiểu thuyết mô tả một không gian đa chiều, nơi con người và các sinh vật khác cùng chung sống, cùng tồn tại trong những tình huống bí hiểm, đầy trắc ẩn, dễ nhầm lẫn đâu là hư là thực. Con người không có quyền định đoạn hay tỏ thái độ “trung tâm”, vì mọi thứ đều dựa trên luật nhân quả. “Y hốt hoảng bảo thôi đi, hãy tha cho nó làm chúa tể ở đây, ông hiếu sát như vậy không tốt gì trong chuyến xuyên rừng xuyên suối này đâu, tháng trước có mấy người đi rừng bị voi giẫm chết bi thương lắm”. “Y thoắt rùng mình khi nhận thấy ở sâu trong những hốc mắt đẫm nước, cả người và chó hằn lên những tia xanh lét, rờn rợn mà nghe đồn chỉ có ở loài hồng cẩu quẩy. Y rùng mình nghĩ đến một kết cục không hay ho xảy đến với mình”. Bối cảnh thoát li hiện thực, nhưng sự kiện lại cắm rễ vào đời sống. Con người không ai ngó ngàng, thiếu kết nối, nhưng lại bận tâm giữa chiều sâu nhân sinh. Cứ thế, Hư thực cuốn người đọc đi trong sương mờ giăng mắc của những nội tâm phức tạp, đa đoan; của những giấc mơ đan xen ẩn hiện, liêu trai và buồn bã, chất vấn và suy tư, dục vọng và lí tính.

Nhà văn Phùng Văn Khai (phải) trao đổi cùng đồng nghiệp

Trong thế giới đó, giới hạn giữa các loài trở nên mong manh, buộc nhân vật phải tái định nghĩa về chính bản thân mình. “Con người vẫn tồn tại một cách cẩu thả, tăm tối, đầy oán trách và đồi bại. Con người đang tụt xuống những con dốc miên man không dứt. Con người vĩnh viễn không tìm thấy mình từ hàng ngàn hàng vạn năm. Trước cái lồng quản thúc hết sức kiên cố, không ai đập vỡ được, càng không ai thoát ra khỏi móng vuốt của nó. Cứ theo những ý nghĩ của cái đầu rùm ròa kia thì con người khi mặt trời lặn cũng là lúc trốn vào những nỗi đau của mình, loay hoay trong cái lồng chật hẹp. Con người luôn cố thoát ra rồi lại không mong muốn thoát ra đầy khó hiểu”. Quan niệm về con người trên cơ sở đó không chỉ xoay quanh bản ngã cá nhân, mà còn mở rộng tới mối quan hệ giữa con người và sinh thái, giữa các thực thể khác nhau trong một vũ trụ tương thông, tương hỗ.

Một trong những chìa khóa quan trọng trong tư tưởng nhân sinh của tác phẩm là bản chất linh hồn và những giới hạn khó đo đếm của nó. Các nhân vật trong Hư thực thường đối diện với những biến đổi kì lạ của vô thức, nhưng chính trong những biến đổi đó, họ nhận ra được bản chất con người và giá trị của tự do. “Y nhìn gã, trăng leo lét tưới tắm thân thể, tóc râu, áo quần, thân phận mấy con người rừng rú. Trăng lênh loang, tràn khắp lều bạt, gỗ lạt, củi cành, phên giậu, cỏ cây, đá sỏi một vẻ mông muội, hoang sơ. Đời người hữu hạn sao ham muốn khôn cùng, trách nào không rước về tai họa”. “Những cơn mộng mị hư thực, những ước muốn hão huyền, nối nhau bước đi như hai gã tâm thần nơi rừng hoang”. Hành trình của nhân vật là hành trình tìm kiếm sự thừa nhận và giao thoa cảm xúc giữa các thực tại khác nhau, đồng thời khẳng định rằng, bản thân con người không chỉ bị giới hạn bởi các quy chuẩn xã hội cứng nhắc, mà còn chịu sự hạn hữu của thể lí sinh học trong định luật tự nhiên.

Trên phông nền phiêu linh đó, Phùng Văn Khai còn bày tỏ cặn kẽ quan niệm về nhà văn và sáng tạo nghệ thuật. Dĩ nhiên, tác giả không áp đặt hay định hướng một lối viết cụ thể, mà qua hành trình đi tìm chân lí đời sống và nghệ thuật của Y và họ Đào, Phùng Văn Khai đặt ra trách nhiệm của người cầm bút: “Thằng nhà văn không khám phá sự thật thì còn ra gì”. Tuy thế, trong thế giới mà “bản chất cuộc đời là hư thực”, Phùng Văn Khai cho thấy một nghịch lí mang tính hiện sinh: làm thế nào để truy tìm sự thật, khi sự thật ấy luôn được phủ lớp màn che của giả dối, ngụy trá? Từ đó, tiểu thuyết dấy lên vấn đề cốt lõi: liệu nhà văn có thể giữ vững niềm tin vào chân lí, và liệu họ có dám đánh đổi sự an toàn cá nhân để truy cầu điều ấy? Như lời nhân vật trong truyện từng nói: “Sáng tác không hèn thế được” - một tuyên ngôn không chỉ khẳng định bản lĩnh của nghệ sĩ, mà còn cảnh báo sự sa đọa của văn chương khi đánh mất tinh thần phản kháng và sự tỉnh thức nội tâm.

Tiểu thuyết đã tô đậm ý niệm sâu sắc về sáng tạo nghệ thuật: sáng tác không chỉ là kĩ thuật hay phương tiện truyền đạt, mà là một hình thức sống, một trạng thái hiện sinh. Với họ Đào, “đã sáng tác là quên hết xung quanh”, là khi “những con chữ sống ngay lập tức cuộc đời của chúng”, gợi mở một hình dung về văn chương như một thực thể sống động, có thể khổ đau, hoan lạc, và cả phản kháng. Ở đây, nhà văn không còn đơn thuần là người kể chuyện, mà trở thành kẻ đồng hành với nhân vật, chịu đựng cùng nỗi đau, đối diện cùng sự bấp bênh của cuộc đời. Những trang viết của họ Đào - dù ảm đạm, đầy bất lực - vẫn cho thấy một nỗ lực không ngừng để gắng gỏi chạm tới bản chất luân hồi, nhân quả và vô thường trong kiếp người. Văn chương là lĩnh vực đòi hỏi sự dấn thân và khát vọng khám phá không ngừng về con người và cuộc sống. Mỗi nhà văn đều có một con đường sáng tác riêng, phản ánh thế giới quan và nhân sinh quan của chính họ. “Họ Đào bảo, sáng tác ít ra phải như thế, lẽ ra ông đã có một cái gì khá. Hãy thoát khỏi đám đông đi. Y lặng lẽ không nói năng. Dễ gì thoát khỏi đám đông. Sáng tác ấy không in được, xếp xó, Y cũng đã quên từ lâu”. Qua Hư thực, Phùng Văn Khai đã phần nào khắc họa những lối tư duy khác nhau về sáng tạo văn chương. Nhờ thế, chúng ta thấm nghiệm một bài học sâu sắc: sáng tạo văn chương là hành trình đơn độc nhưng không thể xuôi theo sự dễ dãi. Người nghệ sĩ chân chính là người dám sống, dám viết, dám giữ vững lập trường và không ngừng truy cầu sự thật. Văn chương, suy cho cùng, là nơi hiện thực được soi chiếu bằng một cái nhìn riêng, đầy bản lĩnh và nhân văn.

Bên cạnh đó, tiểu thuyết Hư thực đặt người viết vào một thế giằng co giữa khát vọng nói lên sự thật và nhu cầu sinh tồn trong một thế giới đầy bất trắc. Nhân vật Y được “trời” phú “con mắt thứ ba”, có khả năng nhìn thấu mọi việc. Chi tiết này đã phản ánh rõ thiên bẩm cần phải có của người nghệ sĩ: nhận diện, thấu suốt bản chất đời sống dù bất kể đứng giữa lằn ranh của lí tưởng hay thực dụng, giữa cô đơn hay hòa nhập. Điều cốt lõi nằm ở nội lực dấn thân, xông pha của nhà văn. Có ý niệm tốt đẹp, có tư tưởng tiến bộ, nhưng lại không thể chuyển hóa vào trang viết, đó là thất bại của người nghệ sĩ. “Có những con chữ không chịu ở lâu trong đầu. Chúng phải sống ngay lập tức cuộc đời của chúng, có khi chỉ một hai người nhìn thấy chúng sống, nhảy múa, hát ca hay là khóc, chúng cũng bằng lòng với đời sống ấy của mình”. Đôi khi, nhà văn cũng phải đấu tranh với hai dòng suy nghĩ: viết trốn tránh hiện thực, thỏa hiệp với mọi xấu xa để có thể sống an toàn, hay cứ mạnh bạo mà viết để hứng lấy cuộc đời sóng gió, xa lánh, thiệt thân. “Viết có khi phải lấy yên thân an toàn. Sống không nổi viết gì. Phải sống sót đã. Còn viết hãy cầm chừng thôi, lựa nhau mà viết, cũng như lựa nhau mà sống”. Nhận định này không chỉ mang tính tự sự, mà còn cho thấy một nhận thức cặn kẽ về cái giá phải trả khi dấn thân vào con đường văn chương chân chính. Viết không chỉ để được “sống sót”, mà còn để “sống đúng” với sứ mệnh của văn chương - phản ánh hiện thực, lay động lòng người, mở ra những chiều sâu tư tưởng. Từ đây, người đọc có thể thấy rõ một quan niệm xuyên suốt trong Hư thực: viết không nhất thiết phải chiều chuộng thị hiếu, mà chính là chống lại sự mài mòn của thời gian và cái vô nghĩa của tồn tại.

Trên phương diện hình thức, Hư thực là sự hòa quyện giữa hiện thực và huyền ảo, tạo nên một cấu trúc nghệ thuật mở, giàu liên tưởng. Phùng Văn Khai đã chủ động nới lỏng một cách cởi mở về tư duy văn chương; không trình bày sự kiện theo tuyến tính truyền thống mà sử dụng thủ pháp phân mảnh, đan xen giữa các lớp truyện, giữa giấc mơ và hiện thực, giữa tiếng nói của nhân vật và tiếng nói của chính tác giả. Qua đó, Phùng Văn Khai đã tạo nên một không gian đối thoại đa chiều. Lúc này nhà văn không còn là kẻ độc quyền chân lí, mà là người gợi mở, người thắp sáng những mảng khuất tối của hiện thực và ý thức. Cách viết này không chỉ làm tăng chiều sâu ngữ nghĩa cho tác phẩm, mà còn phản ánh thế giới quan bất định của con người hiện đại - nơi mọi nỗ lực lí giải đều mang tính bất toàn.

Trong dòng chảy văn học đương đại Việt Nam, tiểu thuyết Hư thực của Phùng Văn Khai là một trong những tác phẩm tiêu biểu cho lối viết kì ảo, siêu hư cấu. Tráng men hiện thực bằng những giấc mơ và làn sương huyễn hoặc, Hư thực của Phùng Văn Khai mang một phong cách đậm chất thơ, kết hợp giữa những đoạn văn đầy ám ảnh và những câu chuyện có tính truyện lồng truyện đầy tượng trưng, dẫn gợi. Nhìn chung, Hư thực đánh dấu sự sáng tạo và dũng cảm của Phùng Văn Khai trong việc mở rộng biên độ của tiểu thuyết. Tác phẩm khẳng định một điều: văn học không chỉ là sự tái hiện thực tại mà còn là cuộc đối thoại không ngừng với thế giới nội tâm và những tầng sâu vô thức của con người. Vì thế, Hư thực không chỉ là một tác phẩm hư cấu mang tính biểu tượng, mà còn là một văn bản triết học về nghề viết và sự hiện hữu. Với tác phẩm này, Phùng Văn Khai đã minh chứng rằng, tiểu thuyết đương đại Việt Nam hoàn toàn có thể vươn tới chiều sâu tư tưởng và hình thức nghệ thuật phức hợp, ngang hàng với các xu hướng quốc tế. Điều quan trọng là ở tinh thần không ngừng tự vấn và dấn thân -  điều mà Hư thực đã thể hiện một cách thuyết phục và đầy lay động.

NTT

 


[1] Diêm Liên Khoa. (2014). Kiên ngạnh như thủy. Hà Nội: Nhà xuất bản Hội Nhà văn. Tr.13.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm
Vẻ đẹp tình người và nỗi niềm ưu tư trong thơ Phạm Nguyên Thạch
Một trong những cánh én đầu đàn của văn học An Giang - nhà thơ Phạm Nguyên Thạch, anh sinh năm 1948, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, nguyên Phó Chủ tịch Hội Văn học Nghệ thuật An Giang và hiện là Chi hội trưởng Chi hội Nhà văn Việt Nam tỉnh An Giang. Anh sáng tác từ trước năm 1975. Từ đó đến nay, nhà thơ đã có những tác phẩm tạo tiếng vang được xuất bản: “Ngôi nhà lợp ngói âm dương” (Văn Nghệ AG, 1986); “Theo tình” (VNAG, 1994); “Gió” (NXB Trẻ, 1999); “Thị trấn đá” (VNAG, 2002); “Cỏ lá quẩn quanh” (VNAG, 2006); “Mưa ảo” (NXB Hội Nhà văn, 2019).
Xem thêm
Nghiên cứu truyện Nam Cao theo góc nhìn thi pháp
Bằng cách ghi nhận từ các bài nghiên cứu, lời giới thiệu, chắt lọc những ý kiến nho nhỏ, có khi chỉ một vài nhận xét liên quan, có thể đưa ra một cách nhìn về tình hình nghiên cứu truyện ngắn Nam Cao trên góc độ thi pháp học hiện đại.
Xem thêm