TIN TỨC

Lời bình bài thơ Má Cửu Long Giang

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-12-18 15:41:30
mail facebook google pos stwis
1332 lượt xem

Má Cửu Long Giang

 

Khúc ru êm: dòng kênh êm xuôi

Khúc chao đảo: tàu hải quân ruồng bố

Lưỡi lê xọc vào bụng dừa lỗ chỗ

Tìm đặc công đêm trước đánh tàu.

Tuổi hai mươi, con lại được nằm nôi

Má đưa đi trên bập bềnh sông nước

Nôi con nằm là chiếc hầm bí mật

Dưới đáy xuồng chất đầy dừa tươi.

Cắt ngang trận càn, đưa con về cứ

Má lại cùng hoa trái giao liên

Gọi kênh rạch dọc ngang xuôi về giải phóng

Triều xuống, triều lên cũng nhịp bưng biền.

Tóc xanh tiễn chồng, tóc bạc tiễn con

Thương nhớ đỏ môi trầu cắn chỉ

Chiếc xuồng nhỏ ba bình hương liệt sĩ

Má bồng bềnh như khói như sương.

Năn nỉ mãi má mới rời mặt nước

Đêm cây vườn nhớ sóng đung đưa

Con dế gáy đầu giường nhớ mạn xuồng cá quẫy

Tôm búng càng như trẻ chơi mưa.

Nhà tình nghĩa cau vườn chưa kịp hái

Má đã nhập hồn vào Cửu Long Giang.

 

Nguyễn Vũ Tiềm

Thơ Việt Nam thế kỷ XX -

Thơ trữ tình, Nxb Giáo dục, 2005

Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm

Lời bình của Phạm Đình Ân

Đã có nhiều bài thơ ca ngợi bà mẹ Việt Nam anh hùng. Hình ảnh bà mẹ khắp mọi miền Tổ quốc, nhất là ở miền Trung, miền Nam - dù hậu phương hay chiến trường - mãi mãi đậm nét trên nhiều trang thơ. Với Má Cửu Long Giang, nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm đã góp một sáng tác tâm huyết vào số những bài thơ đáng trân trọng nói trên. Lời thơ kể về một phụ nữ luống tuổi ở Nam Bộ tham gia chiến đấu trước năm 1975. Vào vai anh bộ đội trẻ, tác giả thật khéo léo vẽ lại cái cảnh nằm nôi thuở bé của một người chiến sĩ tuổi hai mươi. Má Cửu Long Giang đã giấu người lính đặc công như giấu một đứa con của mình trên một cái nôi đặc biệt: Nôi con nằm là chiếc hầm bí mật/ Dưới đáy xuồng chất đầy dừa tươi. Đây là hình ảnh liên tưởng hoán dụ đầy thi vị giữa chiếc nôi (nối từ ngày xưa đến hiện tại) và con thuyền chất đầy trái cây, giữa chiếc nôi và chiếc hầm bí mật. Hình ảnh này thuộc về người chiến sĩ hay thuộc về nhà thơ, hoặc của cả hai, độc giả không cần phân biệt, chỉ biết đây là hình ảnh đẹp, thơ mộng và chân thật. Nhưng đây là chiến tranh, thì sau khúc ru êm vẫn phải có Khúc chao đảo: tàu hải quân ruồng bố. Kẻ thù đã trèo lên thuyền, xọc lưỡi lê khắp chỗ nhằm tìm đặc công đêm trước đánh tàu.

Chỉ với hai khổ thơ thôi, tác giả đã vẽ lên một bức tranh khá hoạt. Người lính đặc công nước như được trở về với tuổi thơ khi nằm trên thuyền của má - một chiếc nôi đưa bập bềnh trên sông nước. Người chiến sĩ coi người má đang che chở cho anh như chính mẹ mình vậy. Anh được sống lại với tình yêu giữa mẹ và con của gia đình mình thuở trước và đang sống với tình yêu mẹ - con giữa người má giao liên và anh. Trong chiến tranh, những người con như anh có nhiều người mẹ, những người mẹ như má Cửu Long Giang có nhiều đứa con yêu quý. Chiến sĩ trẻ Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm (Tố Hữu).

Ba khổ thơ như con thuyền bí mật chở người chiến sĩ dường như cứ xuôi chảy, khiến độc giả yên tâm rằng dọc đường má đã Cắt ngang trận càn, đưa con về cứ. Nhưng, đến khổ thơ thứ tư, niềm xúc động xót buồn về đời mẹ dào lên trong lòng người con - chiến sĩ và lây truyền mạnh mẽ, sâu sắc sang cả chúng ta: Tóc xanh tiễn chồng, tóc bạc tiễn con/ Thương nhớ đỏ môi trầu cắn chỉ/ Chiếc xuồng nhỏ ba bình hương liệt sĩ/ Má bồng bềnh như khói như sương. Thời con gái mất chồng, khi về già mất con. Sự mất mát, hy sinh của má là quá lớn. Con thuyền giao liên như ngôi nhà di động, ba bình hương tưởng nhớ những người thân yêu luôn luôn đi theo. Đây là một chi tiết khá đắt. Hai câu thơ hay nhất trong khổ thơ hay này đã chinh phục độc giả: Thương nhớ đỏ môi trầu cắn chỉ/ Má bồng bềnh như khói như sương.

Khi kết thúc, bài thơ đang cấu trúc theo kiểu 4 câu một khổ thì đến khổ thứ 6, chỉ có hai câu: Nhà tình nghĩa cau vườn chưa kịp hái/ Má đã nhập hồn vào Cửu Long Giang. Sự hụt hẫng này là có dụng ý của tác giả. Má hết lòng vì nhiệm vụ, má đã làm vẹn tròn những gì má muốn, những gì tổ chức yêu cầu. Nhưng, về phía riêng tư đời má, má sẵn sàng chịu thiệt thòi lớn. Má đã nhập hồn vào Cửu Long Giang. Má là người mẹ anh hùng, một hình tượng chung phổ quát. Má mang tên chung của cả một vùng quê đất nước.

                                                                                   PĐÂ

 

___________________________________________________________

Phạm Đình Ân, phòng 201, khu Văn nghệ sĩ, ngõ Núi Trúc,

Phố Giang Văn Minh, P. Kim Mã, Q. Ba Đình, Hà Nội

ĐT: 0903456761

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm