TIN TỨC

Lời bình bài thơ Má Cửu Long Giang

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-12-19 00:10:38
mail facebook google pos stwis
481 lượt xem

Má Cửu Long Giang

 

Khúc ru êm: dòng kênh êm xuôi

Khúc chao đảo: tàu hải quân ruồng bố

Lưỡi lê xọc vào bụng dừa lỗ chỗ

Tìm đặc công đêm trước đánh tàu.

Tuổi hai mươi, con lại được nằm nôi

Má đưa đi trên bập bềnh sông nước

Nôi con nằm là chiếc hầm bí mật

Dưới đáy xuồng chất đầy dừa tươi.

Cắt ngang trận càn, đưa con về cứ

Má lại cùng hoa trái giao liên

Gọi kênh rạch dọc ngang xuôi về giải phóng

Triều xuống, triều lên cũng nhịp bưng biền.

Tóc xanh tiễn chồng, tóc bạc tiễn con

Thương nhớ đỏ môi trầu cắn chỉ

Chiếc xuồng nhỏ ba bình hương liệt sĩ

Má bồng bềnh như khói như sương.

Năn nỉ mãi má mới rời mặt nước

Đêm cây vườn nhớ sóng đung đưa

Con dế gáy đầu giường nhớ mạn xuồng cá quẫy

Tôm búng càng như trẻ chơi mưa.

Nhà tình nghĩa cau vườn chưa kịp hái

Má đã nhập hồn vào Cửu Long Giang.

 

Nguyễn Vũ Tiềm

Thơ Việt Nam thế kỷ XX -

Thơ trữ tình, Nxb Giáo dục, 2005

Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm

Lời bình của Phạm Đình Ân

Đã có nhiều bài thơ ca ngợi bà mẹ Việt Nam anh hùng. Hình ảnh bà mẹ khắp mọi miền Tổ quốc, nhất là ở miền Trung, miền Nam - dù hậu phương hay chiến trường - mãi mãi đậm nét trên nhiều trang thơ. Với Má Cửu Long Giang, nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm đã góp một sáng tác tâm huyết vào số những bài thơ đáng trân trọng nói trên. Lời thơ kể về một phụ nữ luống tuổi ở Nam Bộ tham gia chiến đấu trước năm 1975. Vào vai anh bộ đội trẻ, tác giả thật khéo léo vẽ lại cái cảnh nằm nôi thuở bé của một người chiến sĩ tuổi hai mươi. Má Cửu Long Giang đã giấu người lính đặc công như giấu một đứa con của mình trên một cái nôi đặc biệt: Nôi con nằm là chiếc hầm bí mật/ Dưới đáy xuồng chất đầy dừa tươi. Đây là hình ảnh liên tưởng hoán dụ đầy thi vị giữa chiếc nôi (nối từ ngày xưa đến hiện tại) và con thuyền chất đầy trái cây, giữa chiếc nôi và chiếc hầm bí mật. Hình ảnh này thuộc về người chiến sĩ hay thuộc về nhà thơ, hoặc của cả hai, độc giả không cần phân biệt, chỉ biết đây là hình ảnh đẹp, thơ mộng và chân thật. Nhưng đây là chiến tranh, thì sau khúc ru êm vẫn phải có Khúc chao đảo: tàu hải quân ruồng bố. Kẻ thù đã trèo lên thuyền, xọc lưỡi lê khắp chỗ nhằm tìm đặc công đêm trước đánh tàu.

Chỉ với hai khổ thơ thôi, tác giả đã vẽ lên một bức tranh khá hoạt. Người lính đặc công nước như được trở về với tuổi thơ khi nằm trên thuyền của má - một chiếc nôi đưa bập bềnh trên sông nước. Người chiến sĩ coi người má đang che chở cho anh như chính mẹ mình vậy. Anh được sống lại với tình yêu giữa mẹ và con của gia đình mình thuở trước và đang sống với tình yêu mẹ - con giữa người má giao liên và anh. Trong chiến tranh, những người con như anh có nhiều người mẹ, những người mẹ như má Cửu Long Giang có nhiều đứa con yêu quý. Chiến sĩ trẻ Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm (Tố Hữu).

Ba khổ thơ như con thuyền bí mật chở người chiến sĩ dường như cứ xuôi chảy, khiến độc giả yên tâm rằng dọc đường má đã Cắt ngang trận càn, đưa con về cứ. Nhưng, đến khổ thơ thứ tư, niềm xúc động xót buồn về đời mẹ dào lên trong lòng người con - chiến sĩ và lây truyền mạnh mẽ, sâu sắc sang cả chúng ta: Tóc xanh tiễn chồng, tóc bạc tiễn con/ Thương nhớ đỏ môi trầu cắn chỉ/ Chiếc xuồng nhỏ ba bình hương liệt sĩ/ Má bồng bềnh như khói như sương. Thời con gái mất chồng, khi về già mất con. Sự mất mát, hy sinh của má là quá lớn. Con thuyền giao liên như ngôi nhà di động, ba bình hương tưởng nhớ những người thân yêu luôn luôn đi theo. Đây là một chi tiết khá đắt. Hai câu thơ hay nhất trong khổ thơ hay này đã chinh phục độc giả: Thương nhớ đỏ môi trầu cắn chỉ/ Má bồng bềnh như khói như sương.

Khi kết thúc, bài thơ đang cấu trúc theo kiểu 4 câu một khổ thì đến khổ thứ 6, chỉ có hai câu: Nhà tình nghĩa cau vườn chưa kịp hái/ Má đã nhập hồn vào Cửu Long Giang. Sự hụt hẫng này là có dụng ý của tác giả. Má hết lòng vì nhiệm vụ, má đã làm vẹn tròn những gì má muốn, những gì tổ chức yêu cầu. Nhưng, về phía riêng tư đời má, má sẵn sàng chịu thiệt thòi lớn. Má đã nhập hồn vào Cửu Long Giang. Má là người mẹ anh hùng, một hình tượng chung phổ quát. Má mang tên chung của cả một vùng quê đất nước.

                                                                                   PĐÂ

 

___________________________________________________________

Phạm Đình Ân, phòng 201, khu Văn nghệ sĩ, ngõ Núi Trúc,

Phố Giang Văn Minh, P. Kim Mã, Q. Ba Đình, Hà Nội

ĐT: 0903456761

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm
Con người Chí Phèo
Cái chết của Chí phèo như bản cáo trạng về xã hội thực dân nửa phong kiến thối rữa, nhàu nát, là tiếng kêu oan khốc thấu tận trời xanh của những kiếp người “siêu khổ”.
Xem thêm