- Truyện
- Tiếng đàn tìm con | Truyện ngắn dự thi của Đặng Chương Ngạn
Tiếng đàn tìm con | Truyện ngắn dự thi của Đặng Chương Ngạn
Đêm xuống khá lạnh, Như lặng lẽ rời khỏi phòng thơ mini của gia đình Quang.
Như bước chầm chậm giữa đêm trăng thanh vắng. Ánh trăng rải đều trên lối đi một thứ màu vàng mơ màng. Gió hiu hiu đùa trên mặt sóng hồ nước công viên tạo thành những vòng cung lan tỏa, lấp lánh dưới ánh trăng và ánh sánh lung linh của những ngọn đèn trang trí trong công viên.
Bỗng Như nghe có tiếng kèn saxophone dìu dặt. Như cố đi nhanh về phía tiếng kèn… Một đứa bé chừng 12 tuổi, mặc áo phông, quần bò rách gối đang cầm một cái lon gô đi vòng quanh… và một người đàn ông cao to, hộ pháp, để râu tóc dài đang chơi saxophone cùng cô bé gái độ 11-12 tuổi. Cô bé vừa thổi kèn vừa nhảy theo điệu van một cách điêu nghệ duyên dáng.
Như trở về đến khách sạn đã gần nửa đêm. Hoan, một nhà thơ gặp mặt hồi chiều ở nhà Quang đang đứng đợi anh ở sảnh.
- Em qua gửi tặng anh mấy tập thơ. Đã ký tặng mà anh ra về lúc nào không hay. Nghe anh Quang nói mai anh xuôi.
- Xin lỗi. Làm em phải chờ. Anh mệt qua tính về nghỉ sớm để mai đi nhưng vì gặp nhóm nhạc đường phố trong công viên nên dừng lại nghe.
- Ồ, chắc anh lại nghe tiếng đàn của ông cụ?
- Không. Ở đấy có một đứa bé và người đàn ông chơi saxophone thôi. Cô bé ấy khoảng 12 tuổi, còn người đàn ông chắc độ 50. Mà em nói ông cụ nào?
- Ông cụ kéo vỹ cầm ấy. Trông cụ thương lắm. Cụ kéo đàn để tìm đứa con thất lạc hơn 50 năm trước… Đã 50 năm rồi mà còn đi tìm con…
- Cụ không nhận tiền. Phía trước luôn dựng một tấm bảng dán ảnh bé gái?
- Đúng vậy anh!
Như kéo tay nhà thơ trẻ: “Nào đi! Em dẫn anh ra chỗ ấy!”. Cả hai băng qua đường. Đi ngược chiều dòng xe máy. Cậu thanh niên nhiều khi không theo kịp bước chân gấp gáp của Như. Qua khu vui chơi trẻ con, nhà thơ trẻ dẫn Như đến bãi cỏ ở phía Tây công viên. Ở đấy, bây giờ vắng tanh, không một mảnh người!
-Mấy hôm, ông cụ ấy biểu diễn ở đây. Thường 4-5 giờ chiều. Có lẽ lúc này ông ấy đã về phòng trọ.
*
Như quay về khách sạn. Gọi điện cho đại lý vé lui chuyến bay lại một ngày: mai anh sẽ ra công viên, anh sẽ tìm gặp lại cụ già kéo vỹ cầm.
Như nhớ lại lần đi chợ phiên cùng cha mình 30 năm trước.
Hiếm hoi cha Như mới cho con đi theo trên chiếc xe ngựa luôn bốc mùi nồng hắc đến ngạt mũi phân bò, phân heo, lạc khô… chở thuê từ quê lên tỉnh. Chợ họp mỗi tháng có hai kỳ vào ngày 15 và ngày 30 cuối tháng. Đó là những chuyến đi tuyệt vời trong ký ức tuổi thơ. Như sẽ được cha mua cho một chiếc bánh đúc.
Gặm hết cái bánh đúc, liếm sạch chút bánh dính trên lá, bụng đã căng, đủ hứng khởi để thấy cái chợ tỉnh trải dài trên bãi cỏ ven bờ sông Phủ là xứ thần tiên.
Và, lần đó, khi cha dắt Như xuyên qua những mẹt hàng bày đầy dao, kéo, liềm của mấy ông thợ rèn… Như được nghe thứ âm thanh ngọt lịm, réo rắt, vang lên bên trong đám đông bu kín dưới tán cây bồ đề. Cha kéo Như luồn qua đám người vây tròn, đen đặc, chen lấn mãi mới vào được vòng trong.
Một nghệ sỹ đang kéo đàn. Lần đầu tiên Như thấy cây đàn vỹ cầm. Một cây đàn nhỏ, đẹp, căng dây, đầu đàn uốn cong yểu điệu. Kỳ lạ ngay trước ông không phải là cái ống bơ, hay cái nón bật ngửa để mọi người cho tiền mà là một cái bảng có dán hình một bé gái khuôn mặt tròn vo, mắt đen, mặc áo hoa, quần xanh. Như bước lại gần: “Tìm con Lê Dạ Thi, đi lạc lúc 6 tuổi, năm… Ai thấy cháu xin liên hệ: Bố Lê Tuân, số 2, đường Lý Thái Tổ…”.
Người đàn ông tóc đốm bạc, gầy gò kết thúc bản nhạc, ông cúi gập người xuống rồi ngẩng lên, tiếp tục biểu diễn bản nhạc mới.
Như như bị mê hoặc trong những âm thanh réo rắt, trầm bổng, xuyên thấu qua tai anh và bóp nhẹ lên trái tim non nớt của anh. Âm thanh ấy làm Như phấn khích. Khi quay lại, Như thấy cha đứng sau anh, đang chấm chấm nước mắt bằng vạt áo.
Rồi cha Như bất ngờ bước vào, ôm người đàn ông trong tay khi ông ấy dừng đàn. Hai người ôm chặt nhau rất lâu. Nói chuyện thân mật như quen thân. Chỉ khi đám đông vây quanh, nóng ruột, lên tiếng, cha mới rời người đàn ông.
Cha Như kéo anh rời đi, vừa đi vừa khóc.
Hôm ấy, ông luôn siết chặy tay Như đến đau điếng như sợ Như tuột tay, biến mất.
*
“Cha không ngờ, đã 15 năm rồi mà ông ấy vẫn chưa tìm được con, vẫn đi tìm con. Đứa bé ấy, còn sống, bây giờ cũng đã 21 tuổi rồi!” - Cha Như giọng trĩu buồn khi cả hai đã ngồi trên xe ngựa.
Mười lăm năm trước, khi Như chưa ra đời, lần đầu tiên, cha đã gặp người đàn ông này ở phiên chợ Huyện. Ngày đó, tóc ông ấy còn xanh, chưa một sợi bạc. Ông ấy còn trẻ lắm, chắc cũng chỉ khoảng 28-30 tuổi. Vợ ông còn trẻ hơn. Chồng kéo đàn, người vợ đi vòng quanh, phát những tờ giấy bằng bàn tay có ghi tên địa chỉ liên hệ và đôi khi hát một vài bài hát.
Chợ tan, hai vợ chồng đi từ làng này qua làng khác tìm con. Người chồng kéo đàn, người vợ cầm tấm bảng. Khắp huyện này, không ai không biết họ. Phiên chợ Huyện nào, họ cũng đứng đúng một chỗ, kiên nhẫn từ sáng sớm đến khi không còn một bóng người. Ít năm sau, không thấy người vợ nữa, chỉ còn người chồng, tóc vẫn xanh nhưng người gầy quắt, chỉ còn nắm xương khô… Vẫn cứ đứng ở chỗ cũ chợ phiên. Còn khi đi vào các làng thì người chồng buộc ngay tấm bảng sau lưng. Cái cột bảng nằm dọc theo xương sống, tấm bảng ở ngay trên đầu… Nghe nói sau nhiều năm tìm kiếm con không còn chút mảy may hi vọng, người vợ quyết định thôi không tìm nữa, người chồng vẫn muốn tiếp tục nên hai vợ chồng đã chia tay nhau. Người vợ cưới một người đàn ông làm xây dựng và đã đi theo người chồng mới đến nơi xa lập nghiệp.
Họ lạc mất con vào một đêm trên đường tản cư. Đoàn người nghe tin tối nay quân Pháp sẽ càn qua thị xã, nên kéo nhau trốn vào rừng. Cả một đoàn người đông như kiến cỏ đi lầm lũi dưới trời đêm cuối tháng tối đen như mực. Con đường nhựa đã bị cày nát mấy năm qua, lổn nhổn ổ gà, đá sỏi, một vệt mờ vắt qua cánh đồng hoang và những khoảng đồi sim. Người sau, bám lấy áo, hay nhìn vào người trước mà đi, những cái bắp chân trắng giờ như một vệt sáng dẫn đường. Bất ngờ có tiếng rít động cơ máy bay. Sau đó, là tiếng bom nổ cách xa đoàn người mấy trăm mét, ở cuối đoàn người, về phía thị trấn.
Ai đó kêu lên: “Bọn Pháp càn…”. Dòng người dẫm lên nhau bỏ chạy trong đêm tối, hướng về phía núi, cố chạy thoát càng xa thị trấn càng tốt. Người vợ giữ chặt tay con chạy theo đám đông. Cô bị xô đẩy, đánh rơi túi quần áo nên buông tay con ra, cúi xuống nhặt. Chỉ trong tích tắc, ngước lên, không còn thấy con gái đâu nữa. Họ chạy theo đoàn người, gọi tên con, bám theo bất cứ đứa bé nào có hình dáng giống con, vượt lên xem mặt. Sáng ngày ra, họ vẫn không tìm thấy con gái. Họ quay lại, tuyến đường cũ đêm qua, đi ngược thêm chục km, hi vọng trong khi hoảng loạn con bé chạy ngược dòng người về hướng ấy.
Tối đi tản cư em bé mặc chiếc áo hoa, quần xanh, đi giày vải màu nâu. Đi đâu, hai vợ chồng đều hỏi người bên đường có thấy đứa bé 6 tuổi, mặc áo hoa không? Nhưng chỉ nhận được những cái lắc đầu đầy cảm thông. Họ quay lại nơi bị ném bom, tìm quanh khu vực ấy, lỡ đứa bé không chạy theo đường cái quan mà nhào xuống đám ruộng bên cạnh. Họ nhờ những người dân ở hai bên đường lật từng gốc lúa, lùm cây. Ai cũng khuyên hai vợ chồng hãy tìm kiếm bé trong dòng người đi tản cư vì chắc đứa bé sẽ bị cuốn theo dòng người khi chạy nạn và đã có ai đó đưa đứa bé đi tiếp.
Hai vợ chồng tin đứa con họ vẫn ở đâu đây. Họ kiên nhẫn kiếm tìm. Họ đi đến các vùng quê và tìm con bằng tiếng đàn. Người chồng tin rằng đứa bé còn sống thất lạc đâu đó, có thể quên cả gương mặt cha, mẹ, nhưng không bao giờ em quên tiếng đàn vỹ cầm, tiếng đàn ông đã ru con khi em bé mới ra đời và khi lớn lên em cũng sống trong tiếng đàn đó…
Những năm sau, họ bỏ công việc, bán ngôi nhà duy nhất họ có, dùng số tiền ấy đi tìm con…
*
Người đàn ông ấy tên Dương, vợ tên Thanh.
Cha Như có quen biết và nhận ra ông, cũng như ông nhận ra ngay cha khi họ gặp lại nhau ở phiên chợ năm đó. Ấy là do, 15 năm trước, có một lần cha Như đã ra tay cứu giúp vợ chồng họ.
Trong các bản nhạc người đàn ông biểu diễn, không khi nào thiếu “Sông Danube xanh”, “Trở về Surriento”. Bởi vì đó là hai bản nhạc ông đã ru em bé trên nôi.
Đó cũng là một khó khăn của ông. Vì vào những năm đó, tất cả bản nhạc ngoại quốc đều bị chối bỏ. Dù hai bản nhạc không liên quan đến nước Pháp, không phải do nhạc sỹ Pháp sáng tác. Bản “Sông Danube xanh” của nhạc sỹ Áo, bản “Trở về Surriento” của nhạc sỹ Ý. Nhưng với đa số khán giả thì đó đều là các bản nhạc của bọn ngoại quốc, của bọn xâm lược Pháp. Nên ở nhiều nơi, họ gặp rắc rối với chính quyền, với khán giả.
Thường khi ông Dương kéo đàn thì không sao. Nhưng đôi lần, theo yêu cầu của khán giả, bà Thanh cất tiếng hát. Tiếng hát thường mang lại rắc rối.
Lần ấy, ở thị trấn Cay thì có người yêu cầu hát “Trở về mái nhà xưa”:
“Về đây khi mái tóc còn xanh xanh
Về đây với mầu gió ngày lang thang
Về đây với xác hiu hắt lạnh lùng
Ôi lãng du quay về điêu tàn…”
Vợ ông không nỡ từ chối cất tiếng hát.
Vì lời bài hát có một vài người biết của một nhạc sỹ phản động dịch từ tiếng Pháp nên có ai đó đã báo cho thị trấn. Khi vợ ông lặp lại bài hát lần thứ hai thì một người mặc áo đại cán và mấy dân quân đi vào. Người mặc áo đại cán xưng là cán bộ bên phòng văn hóa.
Mấy dân quân xông vào bắt trói cả hai vợ chồng, định dẫn đi về phòng văn hoá theo lệnh của ông mặc áo đại cán. Cha Như không biết nhạc ngoại quốc phản động, nhạc Pháp là gì, nhưng ông biết rõ hoàn cảnh của hai vợ chồng họ nên nhào vào ngăn lại và cố giúp hai vợ chồng họ trình bày hoàn cảnh của với mấy người dân quân.
“Hai vợ chồng họ bị lạc mất con. Họ đi tìm con. Đánh đàn là để tìm con. Hát là để tìm con. Con họ trước đây đã nghe quen mấy bản nhạc này, nên vợ chồng họ hát bản nhạc này để con họ nhận ra”.
Bà con xung quanh, thấy cha Như nói vậy, thì cũng xúm vào lên tiếng bảo vệ vợ chồng nghệ sỹ Dương. Cuối cùng, ông văn hóa và mấy dân quân thả họ ra, nhưng bắt họ phải rời thị trấn ngay.
Cha Như đã chở họ một đoạn đường. Chính trên đoạn đường này, ông mới nghe và biết câu chuyện lạc mất con của họ. Ông cũng biết lý do tại sao họ không nhận hay xin tiền. Họ rất khó khăn nhưng không dám nhận tiền vì khi họ nhận tiền chính quyền, và nhiều kẻ xấu sẽ cho họ kéo đàn hát để xin tiền và việc họ kéo đàn ở những nơi công cộng để tìm con có thể bị cấm. Họ đã bán nhẫn cưới, kỷ vật, bán dần đồ đạc để có tiền mua thực phẩm.
*
Như gặp lại người đàn ông mấy lần ở chợ.
Gặp lại trên đường làng.
Mỗi khi nghe tiếng đàn nước mắt Như lại tuôn ra. Anh thầm mong âm thanh của tiếng đàn ấy sẽ vọng đến tai của cô gái (bây giờ cũng đã hơn 21 tuổi), cô sẽ nhận ra tiếng đàn của cha mình. Hai cha con họ gặp lại nhau. Như vẫn tin, nếu sống đến cuối đời cô gái ấy vẫn nhận ra tiếng đàn của cha mình trong hàng ngàn tiếng vỹ cầm khác. Vì, đó là những âm thanh cô gái đã nghe khi còn trong bụng mẹ, khi mới rời bụng mẹ, những âm thanh réo rắt đầu tiên trong đời của một con người. Âm thanh, hay sắc màu đầu tiên vọng vào tai, đập vào mắt luôn có ấn tượng mạnh, ghi dấu vào trí não, không thể nào quên.
Và, Như luôn cầu mong cô bé thất lạc ấy vẫn sống, vẫn sống ở đâu đấy khỏe mạnh, hạnh phúc. Vẫn luôn hi vọng sẽ có một ngày ở đâu đó tiếng đàn của người cha tìm được đến với người con.
Không ngờ đã thêm 30 năm nữa trôi qua, người cha vẫn chưa tìm được con, vẫn đi tìm con trên khắp mọi nẻo đường đất nước này.
30 năm, cộng 15 năm, cộng 6 tuổi khi em bé thất lạc, em bé đó nay đã là người đàn bà 51 tuổi. Người đàn bà ấy nếu còn sống chắc đã có nhiều con, con đã lớn, và có thể đã có những đứa cháu bằng tuổi bà ngày thất lạc. 51 năm cũng đã là một đời người.
Vậy mà, người cha ấy vẫn đi tìm con…
*
Thực ra, Như còn gặp lại nghệ sỹ Dương một lần khác, gặp lại trong câu chuyện của Quảng, một bạn cùng làng. Hai đứa chạm nhau ở phà Long Đại, Như từ chiến trường ra, còn Quảng đang hành quân vào. Chia tay, phà sắp chạy rồi, Quảng mới nhớ ra, níu tay anh lại.
Hóa ra, Quãng có gặp nghệ sỹ Dương trên đường hành quân, ở một thi trấn nhỏ, bị bom đạn cày nát, không còn một viên gạch nào nguyên vẹn.
“Bác ấy, vẫn chưa tìm được con, vẫn đi tìm con. Khổ lắm, không còn ra hình người, tóc tai để dài không cắt, áo quần rách vá… Đã bị đuổi khỏi đoàn ca nhạc. Đi gần như hết mọi xó xỉnh miền xuôi, miền ngược tìm con. Đến đâu, lại kiếm việc làm. Bác ấy đã làm đủ nghề: làm nông dân, thợ mộc, làm gạch, vá xe, tất tật… Cứ gom được ít tiền lại lên đường đi tìm con”.
Phà đã rời bến, Như đành chia tay, không kịp hỏi thêm gì nữa…
*
Buổi sáng ở thành phố cao nguyên rất lạnh. 7 giờ sáng vẫn còn vắng hoe, chỉ đôi chiếc xe tải ngật ngừ ngái ngủ bò lên dốc. Không thấy ai đi bộ ngoài đường. Như vẫn quyết đi ra phố. Anh tìm ngay cái quán ăn sáng gần công viên để hỏi tung tích về cụ già. “Có, tôi có đến xem cụ biểu diễn! Tội nghiệp!” - Vài nhân viên phục vụ quán và khách ăn sáng biết về cụ già kéo đàn. Có người biết câu chuyện cụ bị thất lạc con khi đi chạy giặc, nhưng không ai biết thêm gì về đời tư của cụ: Cụ có lập gia đình, có con cái gì nữa không? Cụ làm việc ở đâu? Cụ sống ra sao?
Ăn sáng xong, Như đi vào công viên và gặp ai cũng bắt chuyện để hỏi về người kéo đàn. Nhưng thông tin cũng chỉ có vậy.
4 giờ chiều, Như kiếm một chỗ ngồi gần nơi cụ biểu diễn mà nhà thơ trẻ Hoan đã chỉ tối qua. Anh ngồi chờ. Anh quyết định lần này gặp cụ, anh sẽ tìm hiểu cặn kẽ câu chuyện về cụ và sẽ giúp cụ vật chất nếu cụ khó khăn. 5 giờ-6 giờ, có nhiều người chạy xe đến để xem cụ già biểu diễn. Họ chờ một lúc rồi đi. Cụ già không xuất hiện. Một người dắt con husky lông trắng, mắt hạnh nhân đi dạo, nói ra một thông tin, làm Như chưng hửng: Cụ già đã đi từ tuần trước rồi, chính xác là ngay sau chủ nhật. Ông ta dắt chó qua đây vào chiều thứ hai đã không còn thấy cụ ấy nên biết rõ như vậy!
Khi màn đêm buông xuống, mệt và đói, Như lê đôi chân đã tê cứng rã rời của mình qua công viên để trở về khách sạn. Mặt hồ phủ mờ trong sương lạnh gợn sóng dưới ánh ánh đèn màu trang trí dường như cũng đang lay động bởi tiếng kèn saxophone ở phía bên kia công viên vọng lại như đêm hôm qua. Vẫn là bản “Come back to Surriento”. Nước mắt chảy tràn trên hai má của Như. Trong tâm trí anh hình ảnh người đàn ông kéo đàn vỹ cầm tìm con ào đến choáng ngợp. Phiên chợ cũ ồn ào, khẳm mùi phân ngựa, phân bò… Vào buổi đêm cao nguyên này, ở một nơi gần như cuối đất, cùng trời này, tiếng đàn của người cha tìm con lại vang lên day dứt, quặn đau. Trái tim Như nghẹt lại khi biết rằng cha con họ không tìm được nhau, và có lẽ sẽ không bao giờ còn cơ hội tìm thấy nhau nữa.
Bàn tay rời ra trong đêm đen tản cư ấy rời mãi…
Chỉ một phút giây, họ bị mất nhau mãi mãi. Thượng đế độc ác, bất công không trả lại họ cho nhau. Ba cuộc đời, có hai cuộc đời đã tan vỡ, đã bị nhấn chìm vì lần rời tay trong đêm đen ấy.
Còn cuộc đời của cô bé mặc áo hoa, tóc tết bím thì không ai có thể biết đã về đâu. Liệu cuộc thất lạc ấy, có bàn tay ai đó đón nhận, bao bọc em không? Sẽ may mắn, em gặp ai đó. Và dù đã mất đi cha mẹ, nhưng em vẫn có thể đi tiếp cuộc đời này về phía trước với một cuộc sống tốt đẹp khác.
Phải, có thể như vậy, dù không bao giờ về lại mái nhà xưa, bàn tay xưa…
*
Một đêm không ngủ.
Như ra máy bay. Suốt chuyến bay anh chìm trong im lặng… Mấy cuốn thơ được tặng, thường anh thường vẫn đọc khi đi máy bay, thì nay anh cũng không mang chúng ra khỏi túi xách.
Đ.C.N