TIN TỨC

Triết lý và trữ tình trong thơ - sự thống nhất trong đa dạng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-07-23 12:11:17
mail facebook google pos stwis
2220 lượt xem

GS.TS HỒ SĨ VỊNH

Khi nói đến triết lý trong thơ, tôi nghĩ tới triết học đời sống, một triết thuyết ra đời từ cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX1, gắn liền với sự phát triển khoa sinh học, tâm lý học.

Quan điểm trung tâm của triết thuyết này cho rằng, đời sống không chỉ nhận thức bằng tư duy lôgích, lý tình mà còn biết được nhờ trực giác, cảm xúc, chủ yếu là cảm xúc tôn giáo… Triết lý hình thành, được vận dụng vào sáng tạo nghệ thuật, trong đó có nghệ thuật thơ ca.

Ở phương Đông, thơ triết lý hình thành từ sớm, trên cơ sở triết học kinh dịch, lý thuyết âm dương - ngũ hành. Trong Kinh thi với 305 bài thơ được xuất hiện từ đầu thời Tây Chu cho đến giữa Xuân Thu (các thế kỷ 11-6 trước CN) với nội dung ngụ ý khuyên răn đạo lý, ca ngợi công đức vua hiền, phê phán những hiện tượng đen tối dưới hai triều vua Lê Vương và U Vương. Theo truyền thống văn hóa Á Đông, triết học không có mục đích làm gia tăng kiến thức, mà chỉ nâng cao giá trị tinh thần, nhằm đạt tới cái cao khiết của tư duy, cái hoài vọng của tình cảm. Thơ một câu (3) (thường là ba chữ) ra đời từ đó, tức là thơ được viết trên các bức hoành phi. Đặc điểm của nó là khái quát một châm ngôn, đúc kết một triết lý, mang tính giáo lý cao. Những câu thường gặp: Phúc mãn đường (phúc đầy nhà); Phúc lai thành (phúc sẽ tạo nên); Hòa vi quý (có yên ổn mới được phú quý); Hải đức sơn công (công đức như biển rộng núi cao); Thọ tiến khang kỳ (chúc mạnh khỏe, sống lâu) v.v....

Câu đối cũng là một loại hình thể hiện văn chương triết lý độc đáo, chỉ có ở các nước Hán ngữ; còn câu đối hai vế, theo giáo sư Phan Ngọc “chưa tìm thấy ở đời Đường và đã có ở thời Tống”. Về cấu trúc hai vế tương quan diễn tả một nội dung (đối xuôi) hoặc hai vế có nội dung tương phản (đối ngược) theo quy quy tắc thanh đối thanh; ý đối ý; từ đối từ; với biện pháp tu từ, kết cấu cú pháp để đạt lời hay, ý đẹp. 

Câu đối thường mang triết lý và giáo lý. Câu đối đề tài đền Hùng của giáo sư Vũ Khiêu:

Đất nước, bốn nghìn năm,

nhân ái còn tuôn dòng sữa mẹ;

Đàn con, bảy chục triệu, anh hùng chẳng thẹn tấm lòng cha.

Một câu đối thường treo ở các gia đình khá giả:

Tổ tiên công đức thiên niên thịnh;

Tử hiếu, tôn hiền, vạn đại xuân

*

Vậy, triết lý trong thơ có những đặc điểm gì? Và mang lại cho người đọc những lợi ích gì?

Vũ trụ và thiên nhiên, tiên giới và trần gian, xã hội và con người, không gian và thời gian là những khái niệm vừa hư vừa thực đòi hỏi thế giới quan của nhà thơ năng lực biến dịch, cảm quan biện chứng. Thế giới quan của nhà thơ là hệ thống quan điểm về những hiện tượng tự nhiên, xã hội, con người; theo đó là quan điểm triết học, chính trị, đạo đức, mỹ học, khoa học, tôn giáo. Nó phản ánh sự tồn tại vật chất và ý thức về một thể chế chính trị nhất định, một giai đoạn lịch sử nhất định; nó là phạm trù động, mở cửa tầm nhìn, thái độ đối với sự vật, sự kiện muôn màu, đa sắc. Thiên tai, bệnh tật, sức sống, cái chết, danh vọng, cái đẹp, sự cô đơn thường là đầu đề triết lý của nhà thơ. Muốn viết về đề tài gì thì nhà thơ chỉ có một chỗ đứng: giữa cuộc sống xã hội, một tầm nhìn hướng về trung tâm con người, khi đó mới đúc kết được triết lý sống. Khác đi, con người đứng ngoài xã hội, bên lề lịch sử...

Trong thơ Việt Nam hiện đại viết về đề tài Tổ quốc, Đất nước, lãnh tụ, thiên nhiên, người phụ nữ Việt Nam, các nhà thơ để lại những trang thơ vừa đạt tầm triết lý, vừa mang cảm xúc dạt dào của người nghệ sĩ. Trong số đó cần tôn vinh thể loại trường ca: Sáng tháng năm, Nước non nghìn dặm, Mặt đường khát vọngNguyễn Văn Trỗi, Trường ca sư đoàn, những ngọn sóng mặt trời, Sức bền của đất, Đường tới thành phốBài ca chim Ch’rao v.v... Một trong những vần thơ tôi thích là chương Đất nước trong trường ca Mặt đường khát vọng của Nguyễn Khoa Điềm. Đất nước hiện ra dưới cảm hứng chủ đạo của ông là những hiện tượng đời thường được cá thể hóa Đất là nơi anh đến trường/ Nước là nơi em tắm/ Đất nước là nơi ta hò hẹn/ Đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn, trong nỗi nhớ thầm, những sự kiện lịch sử được “vay mượn” chất liệu dân gian với biểu hiện: chim phượng hoàng, cá ngư ông, với quốc hiệu thời nguyên thủy: Chim và Rồng: Đất nước nơi Chim về/ Nước là nơi Rồng ở đã làm nên dáng hình Đất nước: có hạnh phúc và cay đắng, đoàn tụ và san sẻ, biết hóa thân và không quên tri ân người đi trước v.v... tạo nên triết lý: Niềm tin. Có niềm tin sẽ trở thành sức mạnh. Đoạn thơ cuối của Trường ca: Ta lớn lên bằng niềm tin rất thật; - Đất đai cỗi cằn, thì người sẽ nở hoa/ Hoa của đất, người trồng cây dựng cửa/ Khi ta đến gõ lên từng cánh cửa/ Thì tin yêu ngay thẳng đón vào. Niềm tin thường có hai chiều. Có tin yêu chân thật, thì được đáp trả bằng niềm tin chân thật!. Văn hóa phương Đông thiên về hướng nội. Chữ Tín nằm trong ngũ thường, được các bậc tiền nhân tiếp nhận có chọn lọc để giáo dục đạo đức và phương thức ứng xử. Chữ Tín được Chủ tịch Hồ Chí Minh vận dụng thành phẩm chất thứ hai (Trí, Tín, Nhân, Dũng, Liêm) của đạo đức cách mạng. Đủ biết chữ Tín trong quan hệ giữa lãnh đạo và người dân hệ trọng biết chứng nào… Nếu nói thơ là thái độ sống, tỏ rõ nhân cách văn hóa của nhà thơ đối với thời cuộc, có thể xem đoạn thơ trên của Nguyễn Khoa Điềm có dụng ý cho cả hôm nay, khi mà thực trạng xa dân, thiếu sự tin cậy giữa chính quyền và người dân.

Đọc Đất nước của Nguyễn Đình Thi, các nhà phê bình thường trích đoạn hai. Hai câu đầu: Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội/ Những phố dài xao xác heo may tả cảnh mùa thu thời chinh chiến dừng lại ở nghĩa biểu hiện; còn hai câu sau: Người ra đi đầu không ngoảnh lại/ Sau lưng thềm nắng rơi đầy, tự nhiên tôi bị ám ảnh bởi người chiến sĩ Hà Thành ấy đã ra đi, bỏ lại mẹ già, chị, em thân thuộc để theo đuổi chí lớn trong Tống biệt hành của Thâm Tâm. Đoạn thơ đó nói lên triết lý của người chiến sĩ thời kỳ đầu của cuộc kháng chiến xâm lược, có phần nào đó lý tưởng “yên hùng”- một môtíp của lớp thanh niên, học sinh xếp bút nghiên lên đường tranh đấu… Người ta thường nói, thi ca phản ánh lịch sử, nhưng thi ca triết luận hơn lịch sử bởi sự trường tồn của Nàng thơ, bất chấp sự thay đổi thế sự.

Triết lý trong thơ không chỉ dừng lại ở sử thi, anh hùng ca, trường ca, mà còn ở thơ trữ tình, thơ trào lộng, thơ tự bạch. Trong thơ Hồ Chí Minh, cảm hứng chủ đạo khi đứng trước thiên nhiên của Người bắt nguồn từ triết lý phương Đông: Thiên - Địa - Nhân; Thiên - Nhân hợp nhất. Suốt đời Người theo đuổi triết lý sống cao thượng, không màng danh lợi và của cải vật chất, lấy thiên nhiên làm bạn và đối tượng sáng tạo. Trong thơ Hồ Chí Minh có nhiều cảnh đẹp: Pác Bó hùng vĩ, cảnh rừng Việt Bắc, đêm đi thuyền trên sông Đáy v.v... có trăng nhòm cửa sổ, có chim rừng vào cửa đậu, có cảnh chơi trăng, có mặt trời đỏ và nhành hoa mai v.v... Ngay cả một hòn đá trước mắt nhà thơ cũng trở nên sinh động. Người liền nghĩ ngay đến sức mạnh của dân tộc: Hòn đá to/ Hòn đá nặng/ Nhiều người nhấc/ Nhấc lên đặng/ Biết đồng sức/ Biết đồng lòng/ Việc gì khó/ Làm cũng xong. Nhân bàn chuyện thân thiện với thiên nhiên, xin dẫn bài Cảm tưởng đọc thiên gia thi, chỉ bốn câu: Thơ xưa chuộng cảnh thiên nhiên đẹp/ Mây, gió, trăng, hoa, tuyết, núi, sông/ Nay ở trong thơ nên có thép/ Nhà thơ cũng phải biết phong. Chuộng thiên nhiên đẹp là cần thiết, nhưng chưa đủ. Nhà thơ dân tộc còn có “chất thép” - bản lĩnh cách tân và lý tưởng sáng tạo.

Ngôn ngữ thơ Tố Hữu phong phú và độc đáo, hào sảng và trữ tình, nét dáng truyền thống và không khí thời đại đã đi vào tâm thức và đời sống tinh thần của nhiều thế hệ, từ những văn kiện trang trọng của Nhà nước cho đến những lời ăn tiếng nói của nhân dân. Nói đến lý tưởng của tuổi trẻ chiến tranh giữ nước, người nói thường dẫn câu: Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước/ Mà lòng phơi phới dậy tương lai...../; đề cập kinh nghiệm sống của người nông dân, có câu: Bắt sỏi đá phải thành sắn gạo (Sáng tháng năm); nói đến chân lý ứng xử của người đời: Có gì đẹp trên đời hơn thế/ Người yêu người sống để yêu nhau (Bài ca xuân 1961); luận về triết lý sống, lúc thành công cũng có lúc vấp ngã: Ai chiến thắng mà không hề chiến bại/ Ai nên khôn mà chẳng dại đôi lần (Dậy mà đi) hoặc sự lựa chọn cuộc đời lập thân, lập nghiệp: Bâng khuâng đứng giữa đôi dòng nước/ Chọn một dòng hay để nước trôi? (Dậy lên thanh niên); triết lý giữa sự sống và cái chết theo quan điểm chủ nghĩa anh hùng thời chiến: Có những phút làm nên lịch sử/ Có cái chết hóa thành bất tử/ Có những lời hơn mọi lời ca/ Có những người như chân lý sinh ra... (Hãy nhớ lấy lời tôi).

Thơ viết về biển của Hữu Thỉnh là bài thơ tự do, rất ngắn, dễ hiểu, dễ thuộc, tứ thơ không lạ, lạ nhất là cách “chơi chữ” từ nghĩa biểu hiện: biển - cánh buồm; chiều - màu tím, gió - vách núi - sóng chuyển dịch sang nghĩa nội hàm để nói lên triết lý; tình yêu chân thật bao giờ cũng có nhận  cho, có nhớ nhung  trách cứ, nhưng thủy chung, như sức sống huyền diệu từ hai phía theo lối tu từ: phủ định, giả định để xác định: Gió không phải là roi, mà vách núi phải mòn/ Em không phải là chiều, mà nhuộm anh đến tim/ Sóng chẳng đi đến đâu, nếu không đưa em đến/ Dù sóng đã làm anh/ Nghiêng ngả vì em.

Khi nghiên cứu thơ Nguyễn Trãi, Jacques Gaucharon viết: “Đối với Nguyễn Trãi thơ và lịch sử là một... hay nói cách khác, đã đến lúc lịch sử trở thành động lực của thơ và thơ trở thành động lực lớn”. Đó là trường hợp những câu thơ triết lý của Chế Lan Viên. Ngôn ngữ thơ của ông dường như ai cũng có thể nói được, có khi đã “bạc màu”, nhưng khi vào thơ lại có sự nhuần nhị giữa ý và lời, giữa “tia chớp” trí tuệ và nồng cháy của cảm xúc, thì câu thơ trở thành châm ngôn nhớ đời. Xin dẫn vài câu tâm đắc:

- Rút bài học kinh nghiệm lịch sử: Mỗi chú bé đều nằm mơ ngựa sắt/ Mỗi con sông đều muốn hòa Bạch Đằng (Tổ quốc bao giờ đẹp thế này chăng?); Cha ông xưa từng đấm nát tay trước của đời/ Cửa vẫn đóng và Đời im ỉm khóa...

Tri ân đức, tài, công của tiền nhân: Có được trái cây thơm, ta biết quý cả mùa lành (Người thay đổi đời tôi, người thay đổi thơ tôi).

- Sự đa tình, đa cảm của tình yêu: Tình yêu làm đất lạ hóa quê hương (Tiếng hát con tàu); Thiếu cả gia đình ngay giữa đất quê hương (Kết nạp Đảng trên quê mẹ).

- Kỳ vọng về sự tu dưỡng điều thiện: Gỗ trăm cây đều muốn hóa nên trầm (Tổ quốc...)

Tuyên ngôn thơ của một nhà thơ công dân: Ta để ra đời sao khỏi những cơn đau?/ Hãy biết ơn vị muối của đời cho ta chất mặn! (Tổ quốc...)

*

Bên trên, chúng tôi có nói đến triết lý trong thơ tự bạch. Ngay cả lúc trách móc đáng yêu, cười cợt, tự trào, thì đằng sau những câu thơ trào lộng kia của Hồ Xuân Hương, của Tú Xương, người đọc thấy cả một tấm lòng nhân hậu, thủy chung, một triết lý thâm trầm, rất người: Chuyến đò nhân nghĩa sao không nhơ!/ Sang nữa hay là một chuyến thôi? (Qua sông phụ sóng): Hai câu này còn có nghĩa đen thâm thúy theo phong cách nhà thơ trào lộng họ Hồ. Hoặc ở Tú Xương, khi suýt phải mất ô, lúc ra khỏi rạp hát: Sợ khi rày gió mai mưa/ Lấy gì đi sớm về trưa với tình (Đi hát mất ô). Trong Văn tâm điêu long, Lưu Hiệp ở chương Tỷ và Hứng khuyên nhà thơ muốn đẩy tình cảm trỗi dậy thì phải dựa vào cái vi diệu so sánh. Lời thơ súc tích, sung mãn mãi mãi có lời thơ “có cánh” với nghĩa đen và nghĩa hàm.

Thơ hay không phải độc quyền của thơ triết lý. Người làm thơ nào cũng thích mình nổi tiếng, nhưng nổi tiếng có khi trở thành gánh nặng, nếu không biết “tri túc”. Nổi tiếng không phải là mục đích. Mục đích của thơ ca là đi vào cõi đời, lòng người. Không xuất phát từ chất mặn của đời, thì thơ anh (chị) vẫn bị công chúng lạnh nhạt. Hiện tượng phi thơ, mạo nhận thơ, thơ không cần ý, không cần nghĩa, là “bóng chữ” v.v... tôi hoài nghi, dù đó là ai. Ai đó đã nói đúng: Cái tôi trở về mạnh mẽ, dữ dội quá, nên thơ khó hiểu, tắc tỵ. Không hiểu thì nói gì đến cảm!? Nói chuyện thơ với bạn đọc, từ trải nghiệm của nhiều nhà thơ yêu nước thời trung cận đại nổi lên dòng chảy nhập thế đau đời trước cảnh đất nước lâm nguy, tất cả họ đều có chung một cảm hứng tương đồng: Vừa không màng danh lợi, vừa đau đáu nỗi lo dân. Truyền thống triết lý của Nguyễn Bỉnh Khiêm (1491-1585) với tấm lòng lo trước thiên hạ đến già chưa thôi; được Nước nên biết chỗ được Dân... đến Đặng Huy Trứ (1825-1847) thì chân tâm hay quyền biến, nếu có lợi cho dân: Dân không chăm sóc, chớ làm quan.../ Muốn dân được lợi cần quyền biến/ Tội vạ riêng mang hả sợ gì?/. Ngay từ thời kỳ thực dân Pháp cướp nước, vua quan hèn nhát đầu hàng giặc, nhà thơ công dân đã tung ra những vần thơ triết lý: Tâm bút phương tri bút hữu quyền (1863) (cầm bút nên hay bút có quyền). Chống lại kẻ tà đạo, lũ bất lương tham nhũng, phụng sự nhân dân bị áp bức chính là quyền lực của nhà thơ.

______

1. Thật ra, triết lý được dùng từ thời cổ đại Hy-La. Theo nhà nghệ thuật học Elie Faure, trong cuốn Histoira de l’Art Antique gọi điêu khắc cổ điển là nền điêu khắc triết lý; Con người chế ngự được dục vọng, dấu hiệu sức mạnh nội tâm, sự thanh thản tâm hồn ở vị Thần mới có, giàu tính nhân bản.

Nguồn Văn nghệ số 29/2023

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm