TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Với nhà thơ Hoàng Cầm, Kinh Bắc như một cõi giao giữa hiện thực và huyền thoại

Với nhà thơ Hoàng Cầm, Kinh Bắc như một cõi giao giữa hiện thực và huyền thoại

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
1226 lượt xem

Đi hết tháng giêng năm 2022, nếu còn sống nhà thơ Hoàng Cầm sang… tuổi 100 (1922-2022). Hình ảnh người từ trăm năm nhắc độc giả nhớ lại tập Men đá vàng của thi sĩ mà Kinh Bắc như cõi giao giữa hiện thực và huyền thoại.

“Bát Tràng. Một trưa hè không năm tháng. Có một người trai trẻ rời thuyền tìm lối đi lên, như leo dốc núi” – đoạn văn trên được chép lại từ một quyển sách cũ của thi sĩ Hoàng Cầm (in năm 1989), chỉ vỏn vẹn hơn sáu mươi trang. Sách thuộc dạo NXB Trẻ vẫn còn trên đường Thái Văn Lung (Q.1, TP.HCM). Với tranh bìa là một bức tĩnh vật sơn dầu của họa sĩ Đỗ Quang Em, bìa do họa sĩ Đinh Cường thiết kế, nổi lên cái tên Men đá vàng.


Thi sĩ Hoàng Cầm.

Bên trong, dưới chữ Men đá vàng có mở ngoặc đề đôi dòng: Một truyện thơ về người thợ gốm Bát Tràng. Thời xưa, Bát Tràng thuộc trấn Kinh Bắc, một Kinh Bắc của văn hóa và lịch sử, với những trai đời Trần mang “Nợ nước xóa ơn vua”; với gái Hậu Lê “Từng đêm vuốt bụng” như để xoa dịu đứa con “Khóc âm y trước lúc ra đời” . Một Kinh Bắc mà nhà thơ nguyện trở về:

Con đấy ư

Con đã về Kinh Bắc

Những cỏ Bồng Thi

Với dế đầu si

Những lá diêu bông

Với đôi xe hồng

Luân lưu thụ thai qua chín đời

(Luân hồi)

Thi sĩ Hoàng Cầm đi về một chốn không ngày tháng

Mỗi bài thơ Hoàng Cầm viết về vùng đất này như mỗi cuộc trùng sinh, ra đi rồi trở về như bánh xe thời gian. Kinh Bắc của Hoàng Cầm như một cõi giao giữa các thời đại, giữa xưa và nay, giữa hiện thực và huyền thoại. Giữa cõi ấy, Bát Tràng hiện ra dưới mắt Hoàng Cầm: “Thôn Bát Tràng, tả ngạn Hồng Hà, từ kinh kỳ sang phía Đông, chừng mười dặm làng xúm xít tranh, ngói, gạch màu nước vôi, quần tụ trên bãi cao nằm vào chỗ sông uốn khúc. Tường cao, ngõ hẹp dài ngắn dọc ngang chằng chịt bàn cờ”.

Tập Men đá vàng mở đầu bằng phần dẫn mang dáng hình của một truyện ngắn. Truyện kể về một chàng trai đi đến Bát Tràng tìm gặp nàng Phong Kiều. Người con gái như đi ra từ huyền thoại với đôi mắt chỉ cần nhìn cũng khiến kẻ đằng đằng sát khí phải buông dao. Trai gái Bát Tràng đều si mê đôi mắt ấy.

Chỉ tiếc một điều, nàng đã có chồng và như lời nguyền của bao người con gái có chồng trong thơ Việt Nam, nàng không hạnh phúc.


Bìa tập sách là một bức tĩnh vật sơn dầu của họa sĩ Đỗ Quang Em, do họa sĩ Đinh Cường thiết kế.

Phần dẫn truyện in chữ nhỏ li ti, phải đọc xong thì mới hiểu trọn những bài thơ phía sau. Ngày xưa Nguyễn Du diễn thơ Truyện Kiều từ tiểu thuyết Kim Vân Kiều của Thanh Tâm Tài Nhân. Trong Men đá vàng, Hoàng Cầm vừa đóng vai Thanh Tâm Tài Nhân vừa đóng vai Nguyễn Du. Một liên văn bản giữa mình với mình, thơ và văn bổ sung cho nhau, như nước, đá, đất cùng hòa quyện tạo thành chất men gốm Bát Tràng.

Thơ Hoàng Cầm gợi mùa xuân. Mùa xuân của Hoàng Cầm khác với Nguyễn Bính. Nếu với Nguyễn Bính, mùa xuân là mùa ly hương, của nỗi cô độc:

Tết này chưa chắc em về được

Em gửi về đây một tấm lòng

Ôi, chị một em, em một chị

Trời làm xa cách mấy con sông

(Xuân tha hương)

Một sự ngậm ngùi như trong thơ Thế Lữ trong Giây phút chạnh lòng:

Rũ áo phong sương trên gác trọ.

Lặng nhìn thiên hạ đón xuân sang.

Xuân của Hoàng Cầm không cô độc, thơ ông lúc nào cũng gợi sự đầy lên, đông đúc, của hội hè, của vẻ đẹp khỏe khoắn, căng tràn như bài Suốt tháng giêng:

Suốt tháng giêng mưa xuân trắng ngõ

Những người gái thôn Dương Ô

Đập sợi thâu đêm

Khi nắng lên se chỉ trắng ngoài thềm

Khi giăng lên đưa con thoi dệt vải

Tiếng hát chập chùng, mái gianh phủ khói

Chị em hẹn nhau ngày hội sang năm

Sẽ hát thi ba mươi sáu giọng bổng trầm

Những người con gái thôn Dương Ô ấy hẳn còn trẻ, còn yêu cuộc đời lắm. Trong không khí mùa xuân này, họ không tiếc nuối xuân xưa mà đã nghĩ đã mùa xuân sau, một mùa hội khác, còn hẹn nhau hội sang năm.

Trong tập Về Kinh Bắc, phần Nhịp 6: Điểm trang dành riêng cho những bài thơ về hội hè, với những cuộc thi sợi bún, thi ăn mía thổi cơm, thi đánh đu, thi hát đúm, thi dệt vải, thi thêu gấm; với hội chen Nga Hoàng, hội Gióng, hội Long Khám, hội Vân Hà…

Có lẽ vì sinh vào tháng giêng, tháng đầu tiên của mùa xuân, nên trong thơ Hoàng Cầm lúc nào cũng căng tràn không khí xuân, với những lời ca, khúc hát, rộn rã khắp nơi. Truyện thơ Men đá vàng gồm các “khúc ca phong kiều”, “câu hát Phù Du” (Phù Du là tên chồng Phong Kiều), “nhịp điệu Hồng Châu” (Hồng Châu là cha Phong Kiều)…

Nàng Phong Kiều tìm chồng đến sức tàn lực kiệt mà hóa đá. Phù Du ôm vợ đá mà đổ lệ. “Cụ già Hồng Châu hứng nước mắt ấy, lấy đá ở thân con gái giã thành bột, hòa lọc thành men, mà cụ đặt tên là Men đá vàng”. Cái đẹp từ tình yêu thủy chung của người vợ:

lửa ráp lò hồng

em níu vai anh mê ly

từng li ti mi li đất chín

ửng rồi men chuốt dáng

thanh xuân

Từ tình yêu của người chồng:

về Bát Tràng phù sa dài silicát lệ

khuấy men em

sống lại

ơi Phong Kiều

Và từ công tạo tác thiêng liêng của tình phụ tử:

Con nghe chứ

Hỡi Phong Kiều! – Cha gọi

Men chảy đâu? Lên ngôi!

Mùa xuân trong thơ Hoàng Cầm có chiều kích rộng nhưng thi nhân ít khi cô lẻ. Bởi mỗi câu thơ ông viết, ông tự tin rằng phía sau mình là cả một truyền thống, một bề dày lịch sử “chống lưng”.

Hoàng Cầm đi như chàng trai trong Men đá vàng đi về Bát Tràng, Kinh Bắc. Ông đi về một chốn không ngày tháng. Thất bại trong hiện tại, ông sống trọn với quá khứ, vịn vào một giá trị vững chãi trước biến thiên. Tất cả cái đẹp, sức sống vững bền nhà thơ phụng hiến cho mùa xuân: “Cho Văn Lang Hồng Bàng Kinh Dương Vương đi? Men đá vàng dào dạt sóng dâng xuân…”.

Và Hoàng Cầm từ cõi trăm năm ấy đi trên con thuyền vượt sông, đến bờ bên kia, như một cuộc thay da, trở về tuổi trẻ.

 Huỳnh Trọng Khang/Vanvn

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm