TIN TỨC

Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-09-04 19:39:13
mail facebook google pos stwis
1321 lượt xem

Với bài viết dưới đây, nhà văn Trầm Hương đi tìm lời giải cho “ẩn số đường đến thơ” và thấy trong thơ Trần Hóa dạt dào lòng trắc ẩn, bắt nguồn từ tiếng ru của bà, của mẹ, trải qua chiến tranh, bệnh tật, thương trường… để rồi kết tinh thành những câu thơ giản dị mà chạm lòng người.
 

TRẦM HƯƠNG

Khép lại trang cuối tập thơ “Lời ru bão giông”, tôi tự hỏi điều gì đã khiến Trần Hóa tìm đến thơ. Người đàn ông này không còn trẻ nữa. Anh đã ở tuổi ngoài 70, đã nếm đủ hương vị hỉ nộ ái ố của cuộc đời, đã từng cầm súng chiến đấu, trở về với đời thường, nỗ lực lập thân, kiến tạo gia đình hạnh phúc.Nhà cao cửa rộng, vợ đẹp con xinh; từng đi qua cửa tử của căn bệnh hiểm nghèo… Anh còn thiếu gì để khao khát, có gì để đáng kinh ngạc?! Vậy mà có một thứ đã khiến anh lao tâm khổ tứ kiếm tìm, dành cho nó một tình yêu mãnh liệt, chân thành mà không màng được đáp trả. Đó là thơ. Trong bài viết này, tôi không phân tích thơ anh hay, dỡ, huyền ảo hay vi diệu mà qua mỗi bài thơ, tôi được gợi lên nhiều điều, tự hỏi điều gì đã khiến anh tìm đến thơ. Tôi đoán định, suy diễn rồi không dừng được, hỏi thẳng anh. Nhà thơ trải lòng:

“Không thể gọi tên chính xác nhưng có lẽ chính là những lời ru à ơi, là những câu hát ví của bà của mẹ từ thưở Trần Hóa còn nằm nôi, ẵm ngửa ở một miền quê sông nước vùng đồng bắng Bắc bộ… Sau này lớn lên, tôi được học, được đọc những tác phẩm thơ của các tác giả trong và ngoài nước, dần dần khám phá ra sự diệu kỳ của thơ trong chuyển tải mọi mặt những giá trị của xã hội nhân sinh, vạn vật… Tất cả đã nuôi dưỡng hồn thơ và nuôi dưỡng tình yêu thi phú nơi Trần Hóa! Có thể gọi đó là cơ duyên đưa Trần Hóa đến với thơ ca chăng?”


Nhà văn Trầm Hương tặng hoa nhà thơ Trần Xuân Hóa.

Qua những gì anh bộc bạch, tôi hiểu anh có quá nhiều tố chất, điều kiện cần và đủ của tâm hồn, trí tuệ để trở thành nhà thơ. Nhưng tôi dừng lại rất lâu ở những bài thơ chưa thể gọi là thơ, còn rất thơ mộc, lục cục lòn hòn mà sao rất gợi. Nhiều bài thơ không nhiều mỹ từ mà sao níu lại cảm xúc người đọc. Một thứ cảm xúc chân thành, không trôi theo trang giấy. Để gọi đúng tên, nó là gì, phải chăng chính là lòng trắc ẩn. Xin bạn đọc dừng ít phút để đọc bài thơ “Hai đứa bé”:

“Những lúc làm về tôi qua đầu hẻm nhỏ

Có hai đứa bé ngồi đây

                        Không biết đã bao lần?

Chúng dỗ dành nhau

                         Mà tôi quá đỗi bâng khuâng

Ngồi đây anh chạy kiếm tiền

                         Mua em cây kẹo mút

Có cái bóng bay và hình bụt nữa nè

Ngồi yên đó nghe em - xem chừng lạc mất

Hai đứa bé như đôi chim non - hổn hển đói mồi…”

Đó là thơ hay là tự sự. Và anh quan sát:

“Thằng anh thấy như già trước tuổi

Đứa em còi như thiếu dinh dưỡng lâu ngày…”

Một người lính đã từng cầm súng chiến đấu cho hòa bình như anh sao có thể dửng dưng, sao không đau, không trắc ẩn trước những số phận trẻ thơ cơ nhỡ, lang thang. Anh không cố ý làm thơ nhưng tiếng lòng lên tiếng, chảy thành câu chữ, trở thành thơ, có sức lay động tim người. Buông súng, cởi áo lính, anh trở về đời thường, lao vào kinh doanh. Và rồi anh cảm nhận một cách sâu sắc, thương trường còn khốc liệt hơn cả chiến trường. Có thể anh kiếm được nhiều tiền nhưng vẫn thấy chông chênh, trống vắng (Cà phê xưa):

“… Khổ tôi nhiều em có thấy hay chưa?

Giọt cà phê rơi chiều vào xa vắng

Mơ hồ tôi lãng đãng phía không em

Giấc mơ nào rớt mộng xuống tàn đêm

Giật mình tôi - cà phê xưa - lại đến

Rong ruổi mình câu thơ cũng lênh đênh”

Anh kiến tạo một gia đình hạnh phúc, bên vợ đẹp con ngoan, vẫn không nguôi trắc ẩn số phận những người phụ nữ kém may mắn. Lời ru người mẹ đơn thân vị thành niên cứa vào lòng anh nỗi thương cảm, xót xa (Lời ru bão giông). Lòng trắc ẩn khiến nỗi đau nhân lên nhiều lần, trách nhiệm cũng nhân đôi, qua lời ru đôn hậu, giàu nghị lưc của người bà:

“… Ru con ru cháu ngậm ngùi

Ru mình bằng một nụ cười như nhiên

Tha phương mẹ lạc xứ phiền

Áo cơm lận đận bạc tiền đâu ra

Con đâu sánh kịp người ta

Nên chi phải hiến thật thà cho điêu

Chết trong lòng mẹ ít nhiều

Chỉ trách trời đất còn nhiều bất công

Thôi con nín lại trong lòng

Bật ra nội lực đi trong cuộc đời…”

Là một cựu binh, tôi không ngạc nhiên vì sao thơ Trần Hóa dành phần lớn dung lượng cho tình yêu quê hương, đất nước, nghĩa đồng bào và những người ngã xuống cho Tổ quốc. Anh thổn thức trước cơn bão tàn phá quê nhà, khao khát sự bình yên:

“Bao giờ trở lại những bi bô tiếng trẻ

Chiếu đất màn trời thôi khắc khổ đất Mẹ ơi!

Đã từng cầm súng giữ đất quê hương nên người cựu binh Trần Hóa thâm trầm đi qua vùng đất từng ghi khắc những chiến tích và dấu tích chiến tranh tàn phá. Có lẽ những câu thơ này chỉ có được ở một cựu binh làm thơ, với cái nhìn sâu vào từng thớ đất, nhìn sâu vào rừng đước xanh bạt ngàn, còn ẩn giấu bao ẩn số của hôm qua và hôm nay (Cần Giờ chiều nghe rừng hát):

“… Người ngã xuống đất trường tồn

Rừng thiên thu hóa lính hồn người đi

Chiều nay rừng hát câu gì

Mà nghe trong đất thầm thì tương lai”

Tổ quốc đồng nghĩa với người mẹ, hình bóng mẹ lồng trong đất nước… Những khái niệm thiêng liêng về Tổ quốc và mẹ gặp nhau trong suy tưởng nhiều nhà thơ. Nhưng Tổ quốc và những người phụ nữ trở nên thật giản dị, hồn hậu, thật cụ thể mà vô cùng thiêng liêng, lớn lao trong thơ Trần Hóa (Những người phụ nữ tôi yêu). Với anh, yêu vợ, yêu mẹ cũng là yêu Tổ quốc:

“… Tổ quốc tôi yêu vì bao điều kỳ vĩ

Kỳ vĩ vô song đó là chị, Mẹ tôi

Là vợ chắt chiu tần tảo cả đời

Dành củ, nhường cơm cho chồng con khi đói

Tôi yêu Tổ quốc của tôi”

Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh dẫu không phải là thủ đô nhưng là thành phố trong tim mọi người con nước Việt. Người cựu binh - nhà thơ Trần Hóa đồng nhất thành phố thiêng liêng này cũng là Tổ quốc, nên đau đớn lắm khi dịch dữ tràn vào thành phố, gây bao thàm cảnh mất mát, tang thương. Nỗi đau của một cựu binh không bi lụy mà thật bi tráng cho những câu thơ lên tiếng:

“… Hỏi có nơi nào như Tổ quốc của tôi

Hỏi có nơi nào như thành phố của tôi

Mọi chốn bệnh mọi chốn đau quặn thắt

Bởi chốn nào cũng đều là máu thit

Máu - máu Việt Nam - Thịt - thịt Việt Nam

Dịch - giặc hung tàn Tổ quốc dẫu nguy nan

Trăm lần như thế Tổ quốc này đều thắng

Để trẻ được đến trường hàng hàng thật thẳng

Cờ lại tung bay vang dội - Tiến quân ca

Thành phố của ta - Tổ quốc của ta

Đoàn kết lại đại dịch này quyết thắng

Tôi dừng lại rất lâu những trang thơ anh viết về đồng đội, về người mẹ ở nghĩa trang, với tất cả sự đồng cảm. Tình cảm đằm và sâu ấy, chân thành, da diết, nghĩa tình, trách nhiệm ấy vang lên từ tiếng lòng của một cựu binh (Chỗ bạn tôi nằm):

“… Bạn đã đi xa năm chục năm tròn

Đất nước đổi thay khác xưa nhiều lắm

Còn mãi trong tôi một nỗi niềm sâu thẳm

Chỗ khúc sông nào V nằm lại bạn ơi!

Xin những con thuyền qua đó nhẹ tay bơi.”

Trách nhiệm với đồng đội, với những người hy sinh đi suốt cùng đời anh, với những chuyến đi, tìm về cội nguồn, quá khứ. Anh đi tìm bạn bằng xuyên không, bằng những chuyến đi tìm về chiến trường xưa, băng qua những con đường thiên lý, miệt mài trên những dòng sông, băng rừng, lội suối, trèo non… Những câu thơ tìm đồng đội của Tràn Hóa cứ làm tôi rưng rưng:

“Hôn lên nắm đất ngày về

Chiến trường xưa vẫn hẹn thề nhớ nhau

Lòng mình còn đó nỗi đau

Chưa tìm được bạn - úa nhàu tâm tư.

 

Bước ngang lội dọc sật sừ

Dấu xưa lạc mất bây chừ tìm đâu

Hỏi cây cao hỏi suối sâu

Bà Đen núi đã bạc đầu sương giăng…”

Núi có thể bạc đầu nhưng tình anh dành cho đồng đội không đen bạc. Tình ấy được thể hiện bằng trách nhiệm của người đang được sống hôm nay. Anh đang sống thay cho đồng đội, không thể sống dửng dưng, vô cảm, thấp hèn.

Trần Hóa dùng thơ thay lời tâm sự; thể hiện những cảm xúc, tâm tư, tình cảm, ý chí và nghị lực. Phải chăng thơ là phương tiện để anh kết nối tiểu vũ trụ mà anh cho là nhỏ nhoi của bản thân mình đến với người, với đời; chỉ để đồng cảm, được động viên, chia sẻ, lan tỏa tình yêu thương từ những cảm xúc rất riêng, rất vi tế trong sâu thẳm trái tim. Hiểu được phần nào ẩn số đường đến với thơ của cựu binh Trần Hóa, ta cũng phần nào đoán định được tương lai thơ của anh.

Phường Cầu Kiệu, 20 tháng tám năm 2025

T.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm