TIN TỨC

Anh Đức, nhà văn yêu dấu của cách mạng và kháng chiến

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
177 lượt xem

GS MAI QUỐC LIÊN

(Bài đăng trên báo Sài gòn giải phóng điện tử ngày 23/08/2014)
 

Thế là khép lại một đời văn. Một đời văn bắt đầu từ tuổi học trò trong kháng chiến chống Pháp. Được giải thưởng Văn nghệ Cửu Long (1952), được vinh danh từ ấy. Thế nhưng cái khởi đầu ấy sẽ không là gì so với những cố gắng thực sự sau này.

Ra Hà Nội sau 1954, Bùi Đức Ái (Anh Đức) chưa đầy 20 tuổi. Nhưng anh trở nên già dặn rất nhanh trên trường văn. Sau truyện ngắn đầu tay là Chị Tư Hậu. Những năm đầu thập niên 60, khi cuộc chiến tranh ở miền Nam trở nên khốc liệt, người ta rỉ tai nhau: anh X, anh Y… vừa đi B. B. là chiến trường, là khói lửa đạn bom, là hy sinh… Đi bí mật. Vượt Trường Sơn mấy tháng ròng, đi bộ, mang trên mình hành trang, vượt đèo dốc… Anh may mắn được đi trực thăng tới Quảng Bình. Và sau đó, cũng là may mắn, khi cô nữ sinh xinh đẹp trường Trưng Vương Hà Nội, người yêu anh, cũng được giải quyết đi B theo anh. Cưới nhau ở trong rừng và sinh con ở trong rừng. Ông Mười Cúc (đồng chí Nguyễn Văn Linh), quý hai vợ chồng, thỉnh thoảng đến lán cho cháu nhỏ hộp sữa…

Nhà văn Anh Đức (1935- 2014)

Vào R. mới là một bước. Bước tiếp theo phải là đến thẳng chiến trường. Anh Đức chọn cho mình vùng Cà Mau – U Minh, mảnh đất địa đầu khốc liệt. Phải sống trong nhân dân, trong quân đội, du kích, nếm trải tất cả… để viết nên trang văn chân thực. Cái tên Anh Đức (thay cho Bùi Đức Ái), bắt đầu vang lên trên văn đàn. Ở thủ đô Hà Nội năm ấy, máy bay Mỹ đã đánh, chúng tôi sơ tán. Và đọc dưới ngọn đèn dầu sơ tán, bản thảo đánh máy tiểu thuyết của Anh Đức Hòn Đất từ miền Nam gửi ra. Đây là cuộc chiến đấu sinh tử của một vùng du kích thuộc đất Kiên Giang. Ngày nay đi từ Rạch Giá đến Hà Tiên, ta đi ngang qua Hòn Đất. Nơi ấy, những người du kích nông dân đã chống giặc, đã diệt ác ôn, đã cày ruộng, đã hy sinh… Nó là mô hình tiêu biểu của cuộc chiến tranh nhân dân chống giặc. Chị Sứ, nhân vật của tiểu thuyết (tên thật là chị Phan Thị Ràng, tức Tư Phùng) đã trở thành bất tử.

Ở miền Bắc khi đó, thực tình là “đói”, là khao khát thông tin về miền Nam chiến đấu. Nhất là những hình ảnh của những con người cụ thể, với tâm trạng, vóc hình, lời nói… Không thể nào lấp được chỗ trống đó, sự khao khát đó. Vì vậy, Hòn Đất với một dung lượng thông tin – nghệ thuật quý giá không gì sánh được, được Tố Hữu gọi là “hòn ngọc” và Hoài Thanh viết “Hòn Đất – hòn ngọc” theo ý ấy. Giáo sư Trần Văn Giàu lúc đó viết chuyên khảo “Miền Nam giữ vững thành đồng” với tư liệu là những bản tin thời sự nóng bỏng của TTX Việt Nam về miền Nam. Ông đọc Hòn Đất như là sự gợi cảm hứng cho tác phẩm sử học của mình và đã viết phê bình Hòn Đất.

Có một câu chuyện: Cái huyện có Hòn Đất bé nhỏ ấy, ngày xưa không mang tên Hòn Đất. Nhưng vì có tiểu thuyết Hòn Đất, mà huyện đổi tên thành huyện Hòn Đất. Câu chuyện sao mà giống chuyện nhà thơ đời Đường - Trương Kế, tác giả bài thơ bất hủ Phong Kiều dạ bạc. Trương Kế đã viết sai chữ Phong (từ phong trong phong kiến mà ra phong trong cây phong), nhưng địa danh Phong Kiều phải đổi theo cách viết của Trương Kế! Áp lực của sự vĩnh cửu, sự bất tử trong văn chương lên đời sống là có thực.

Từ đó, Anh Đức được người đời ca ngợi, mến yêu. Anh là một mẫu hình của một nhà văn “dấn thân”, một nhà văn – chiến sĩ. Thật buồn, nếu như trong một cuộc chiến đấu vĩ đại như vậy, lại không có những nhà văn chiến sĩ tương ứng làm chứng cho máu xương, thắng lợi…

Rồi Anh Đức chuyển sang thể loại truyện ngắn. Anh càng viết càng hay; mãi đến sau này, sau thống nhất, những truyện ngắn của anh trong Miền sóng vỗ (1985) thật nhân tình, thật sâu lắng, mà giản dị trong cốt truyện, trong mạch văn… biết bao nhiêu! Cứ như là cuộc sống hiện lên, chân thật, gần gũi, không một chút “hoa dạng” (hoa dạng là chữ dùng của Anh Đức mà tôi học theo).

Nhưng rồi đến lúc trên làn sóng Đài Tiếng nói Việt Nam vang lên những lá thư Cà Mau trao đổi giữa nhà văn Nguyễn Tuân và Anh Đức thì cái “thi thoại – văn thoại” ấy trở thành như một huyền thoại trong chiến tranh. Trong khói lửa khốc liệt, từ thủ đô Hà Nội bom đạn, sơ tán…. Nhà văn “cổ điển” Nguyễn Tuân đội mũ sắt phòng không, không sơ tán mà đi “phỏng vấn” tù binh, phi công Mỹ, viết Hà Nội ta đánh Mỹ giỏi và nhà văn trẻ tuổi hơn từ Cà Mau, nơi có sắc trời “ong ong tái tái” đã thư từ văn chương với nhau, nối hai miền đất nước lại trong một tâm tình, một khát vọng thắng lợi và thống nhất…

Đặc sắc của những lá thư trên sóng này là văn chương hay, là văn chương mà cũng là trí tuệ, nhận thức. Như ta đã biết, Nguyễn Tuân là cây bút cả thế giới kính trọng về trình độ và để theo kịp, đúng hơn, để xứng đáng là người đối thoại, Anh Đức đã nâng mình lên rất cao. Sau này, như tôi biết, Anh Đức, giống như người bạn thân anh – Chế Lan Viên – không ngừng đọc, học tập, mài giũa, bởi biết rằng “thanh kiếm quý phải trăm rèn mới có”. Văn anh đằm hơn, nhưng cũng trí tuệ hơn. Giải thưởng Hồ Chí Minh trao cho anh được sự đồng thuận rất cao.



Không thể khác được là một nhà văn như Anh Đức, phải gánh lấy những trách nhiệm mà xã hội, đời giao phó. Đó là những nhiệm vụ chẳng “quyền cao chức trọng”, “quyền sinh quyền sát” gì, nhưng quan trọng đối với đời sống văn hóa và xã hội. Anh là một thành viên chủ chốt trong Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật Trung ương, sát cánh bên cạnh Nguyễn Đình Thi, Huy Cận… lèo lái con thuyền văn nghệ. Ở Hội Nhà văn Việt Nam cũng như ở Hội Nhà văn TPHCM, anh tham gia Ban Thư ký và làm Tổng biên tập Tạp chí Văn. Anh cũng là đại biểu Quốc Hội nhiều khóa, cùng Chế Lan Viên, Lý Chánh Trung… đóng góp nhiều ý kiến về văn hóa hiện thời.

Ở đâu, trong lĩnh vực nào, Anh Đức cũng sống thật thà, giản dị, chân tình… Về thành rồi, thắng lợi rồi, anh vẫn vậy, không đổi sắc, không biến màu. Anh vẫn là người xuất thân “dân ruộng” ở An Giang, có anh ruột là liệt sĩ ngay từ ngày đầu kháng chiến. Qua hai cuộc kháng chiến, qua lịch lãm của cuộc đời, anh cũng như Chế Lan Viên, Bảo Định Giang, Viễn Phương, Trần Thanh Đạm… cảm hết cái ơn sâu của nhân dân làm nên thắng lợi, cảm hết cái nghĩa Đảng mà mình là một thành viên, luôn luôn kiên định trong những tình huống ngặt nghèo nhất, lúc tứ phía nổi lên “tiếng địch não nùng của Trương Lương” dụ hàng. TP chúng ta tự hào vì có anh, có nhiều những văn nghệ sĩ như vậy, họ đã tin yêu, đã dâng hiến, đã làm nên bức tường thành chống thoái hóa, chống diễn biến, bảo vệ những lẽ phải của thời chúng ta.

Vĩnh biệt anh, anh Anh Đức rất thân yêu! Anh đã mở đầu và kết thúc đẹp một sự nghiệp và tên tuổi anh sẽ sống mãi với TP, với núi sông này.

M.Q.L

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Anh Đức và bản góp ý văn chương tình nghĩa
Bài của đạo diễn Lê Văn Duy đăng trên báo Phụ nữ ngày 26.8.2014
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Quang Sáng: Đi nhậu và viết văn tuy hai mà một
Sáng 6/12, Hội Nhà văn TPHCM tổ chức hội thảo “Nhà văn Nguyễn Quang Sáng – Cuộc đời và sự nghiệp” nhân 10 năm ngày ông qua đời.
Xem thêm
Một gương mặt khác của nhà văn Nguyễn Quang Sáng
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh, số 153, ngày 5/12/2024.
Xem thêm
Gừng càng già càng cay
Nhà thơ Ngô Xuân Hội viết về nhà thơ Nguyễn Tùng Linh
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Trần Hoài Anh và sự dấn thân với ‘di sản văn học miền Nam’
Đây là Chuyên luận với nhiều trữ lượng thông tin quý và bổ ích về di sản văn học miền Nam 1954 -1975, với độ dày gần 600 trang. Tập sách được đầu tư, nghiên cứu kỹ lưỡng, nghiêm cẩn, khai mở nhiều thông tin hay và có giá trị.
Xem thêm
Thi ca điểm hẹn: Nguyên Hùng ký họa thơ và nhạc
Chương trình của VOH, Đài tiếng nói Nhân dân TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Lâm Xuân Thi và những vần thơ mang nhiều nỗi niềm suy tư, trắc ẩn!
Bài viết của nhà văn nhà phê bình Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm
Phạm Phương Lan và những câu thơ Nút ra từ đá
| “Nứt ra từ đá” (thơ song ngữ Việt - Anh, NXB Hội Nhà văn 8/2024) là tập thơ thứ bảy của nhà thơ Phạm Phương Lan (SN 1973, quê Hà Tĩnh; Hội viên Hội Nhà văn TPHCM). Trước đó, từ năm 2008, độc giả biết đến chị qua những tập thơ như: “Không là gió mây”, “Góc trọ hồn người”, “Khâu tình”, “Mật ngữ em” v.v... và một số ca khúc được phổ nhạc từ thơ của chị...
Xem thêm
Dấn thân vào con đường văn chương
Ở tuổi 80, nhà thơ Trần Nhuận Minh sáng tác và xuất bản sách nhiều hơn bất kỳ thời điểm nào trong cuộc đời ông.
Xem thêm