- Lý luận - Phê bình
- Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
TRƯƠNG NGUYÊN TUỆ
Quen biết nhà thơ cựu chiến binh Trần Ngọc Phượng, tôi hằng cảm phục tình nghĩa bạn bè, đồng đội của anh, rất nồng hậu, rất thủy chung. Như với Đoàn Công Tính, bạn từ thời tiểu học; với Mai Dân đồng hương, đồng nghiệp thơ văn hiện nay, luôn luôn tựa bát nước đầy. Đặc biệt với đồng đội đã hy sinh, Trần Ngọc Phượng nhớ họ tên, quê quán từng người, trong trường hợp nào, tại địa điểm nào... Mười năm hoạt động trên chiến trường Đông Nam Bộ khốc liệt, anh từng trực tiếp vuốt mắt tiễn đưa bao đồng đội ngã xuống khi tuổi còn rất trẻ. Niềm tiếc thương lưu lại trong nhiều vần thơ từ thuở trước đến tận hôm nay. Nhân tháng 7 về, tôi chân thành nhắc lại những cảm xúc ấy của anh. Cũng là chút tình cảm bạn bè trao đổi với nhau, khi không có nhiều dịp gặp gỡ vì tuổi cao sức yếu.
Anh nằm đây, trẻ mãi tuổi hai mươi!
Đó là câu thơ, đồng thời là tiếng thốt từ trái tim Trần Ngọc Phượng khi đi qua cầu Rạch Chiếc trên con đường chính dẫn vào Sài Gòn từ phía Đông. Như mọi người từng biết, trong chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử lữ đoàn biệt động 316 được giao nhiệm vụ chốt giữ chiếc cầu yết hầu này để đại quân ta với nhiều xe tăng và trọng pháo, hành tiến thuận lợi vào Sài Gòn. 52 cán bộ, chiến sĩ đặc công - biệt động Quân giải phóng đã anh dũng hy sinh.
Để hôm nay sau gần 5 thập kỷ: “Bãi cỏ hoang, nơi anh nằm/ Mọc lên những toà nhà hiện đại nguy nga/ Ánh đèn đêm như vạn ánh sao sa...”. Và con người có được: “Niềm tin như sắc nắng ửng hồng/ Nơi cửa ngõ anh nằm/ Thành phố mới vào xuân” (Nơi cửa ngõ anh nằm).
Bài thơ Trần Ngọc Phượng viếng liệt sĩ Thanh Tề, một đồng đội trẻ mà anh gọi là “em”, lưu lại trong tôi ấn tượng sâu sắc bởi tính chân thực cao: “Buổi chiều em ra đi/ Mưa giăng giăng ngoài lộ/ Áo xắn tay/ Tiểu liên quàng trước cổ/ Em hiên ngang đi trước hàng quân/ Em ngã xuống/ tư thế tiến công/ Trong trận đánh/ Quân thù đông gấp bội/ Xác để lại/ Bên cánh rừng lầy lội/ Buổi chiều hoang tê tái mưa sa/ Mấy chục năm qua...”.
Đồng đội và gia đình, trong đó có Phượng, đã bỏ bao công sức đi tìm mộ Thanh Tề, nhưng vẫn vô vọng: “Đất nước mình mênh mông/ Cong cong hình chữ S/ Làm sao anh đi hết/ Vạn nấm mộ vô danh...”
Để kết lại bài thơ, tác giả không nói thêm những lời ngậm ngùi tiếc thương mà gợi lại một hình ảnh cũ, rất thật và gợi cảm: “Chỉ thấy em về/ Nheo mắt cười tinh nghịch/ Chúng mình dễ gì chết/ Nếu chết rồi dễ gì mất xác/ Mất xác rồi còn nấm mộ vô danh”.
Tôi từng đọc đoạn kết này nhiều lần và rưng rưng ngấn lệ!
Qua bài thơ “Bên nấm mộ vô danh” vừa dẫn, ta thấy Trần Ngọc Phượng rất có ý thức về sự hy sinh cao cả của người lính cách mạng. Bởi chúng ta không ngại hy sinh, khi điều đó là cần thiết. Chúng ta luôn sống lạc quan, yêu đời. Như cảm xúc của anh trước bức ảnh “Nụ cười chiến thắng bên thành cổ Quảng Trị” được nghệ sĩ nhiếp ảnh Đoàn Công Tính tặng: “Các anh cười dưới chân Thành đổ nát/ Trận đánh sau ai mất ai còn/ Dẫu máu xương tan trong lòng đất/ Nụ cười còn mãi với nước non” (Nụ cười Thành cổ).
Tuổi ngoại lục tuần rồi sang thất tuần, tranh thủ lúc gân cốt còn săn, Trần Ngọc Phượng nhiều lần về thăm quê hương bên dòng sông Vị, thăm các chiến trường xưa cùng nhiều địa danh lịch sử. Khi đến Hà Tĩnh, rẽ về Can Lộc, nơi yên nghỉ của mười cô gái thanh niên xung phong: “Những năm tháng không thể nào quên được/ Máu xương rơi thấm đẫm con đường/ Em ngã xuống, mười bông hoa bất tử/ Những nụ hoa mới chớm hạt sương/ Bên mộ em người lính già đứng lặng/ Nhớ một thời trai trẻ qua đây/ Ta tặng nhau mảnh khăn dù pháo sáng/ Chiếc lược nhôm làm bằng xác máy bay...” (Mười cô gái ngã ba Đồng Lộc).
Viếng nghĩa trang liệt sĩ Trường Sơn (Quảng Trị), Trần Ngọc Phượng thủ thỉ trò chuyện với những người nằm dưới mộ, song linh hồn là bất tử: “Chiều Trường Sơn/ Lặng ngắt/ Các anh nằm/ ngay hàng thẳng tắp/ nghe tắc kè kêu/ khắc khoải:/ “Sắp về...”/ Đất nước hoà bình/ Nhưng nào đã bình yên/ Giặc ngoại xâm, nội xâm đe doạ/ ... Anh nằm đây/ Có lúc nào yên ả/ Sóng biển Đông/ Rung chuyển chỗ anh nằm!/ Hương khói bay/ Lồng lộng gió ngàn/ Đang bật dậy/ Những linh hồn/ Bất tử” (Chiều nghĩa trang Trường Sơn).
Người Mẹ Việt Nam, người Mẹ viết hoa, phải chịu đựng biết bao khổ đau, mất mát vì chiến tranh. Họ tiêu biểu cho truyền thống anh hùng, bất khuất, trung hậu, đảm đang của phụ nữ Việt Nam. Sau đây chỉ là một trong ngàn vạn trường hợp người Mẹ liệt sĩ: “Mười năm đợi con/ Mẹ nhận về tờ báo tin/ Và cái ba lô con cóc/ Kỷ vật cuối cùng/ Của đứa con độc nhất/ Cái ba lô bạc màu/ Lỗ chỗ vài vết đạn/ Có chiếc khăn tay/ Bạn gái nào thêu tặng/ Có quyển sổ tay/ Con tặng Mẹ bài thơ/ Con biết rằng/ Cả đời Mẹ mong chờ/ Có cháu nhỏ để bồng để bế/ Mẹ ôm chiếc ba lô vào lòng/ Như ôm con trẻ...” (Cái ba lô con cóc).
Trần Ngọc Phượng chỉ nói đến thế, nhưng cũng đủ cho ta suy ra nỗi buồn thương, tiếc nhớ của ngàn vạn Mẹ liệt sĩ sâu nặng, lớn lao biết nhường nào!
Sau ngày toàn thắng trở về, Trần Ngọc Phượng reo lên: “Con sống rồi Mẹ ơi!”, là tiếng lòng rất thật: “Mẹ ơi! Mẹ ơi/ Mẹ ôm chặt vào lòng/ Như sợ con tuột mất/ Con gục đầu vào Mẹ/ Mà không dám reo vang”.
Ta nhận biết tác giả đã reo lên, nhưng rồi không dám reo vang lên nữa, vì: “Bao bà Mẹ mất con/ Bao người vợ mất chồng/ ... Ai biết hoà bình/ Bao máu xương phải trả?” (Con sống rồi Mẹ ơi).
Trần Ngọc Phượng nhắc nhiều đến các đồng đội liệt sĩ và cả những người Mẹ, người vợ thân thương của họ. Đề tài về thương binh liệt sĩ quả rất phong phú, những vần thơ tôi vừa trích dẫn có thể chưa phải là tất cả tác phẩm của anh. Dẫu sao những vần thơ đó đã nói lên khá đầy đủ tình cảm sâu nặng của một hồn thơ cựu chiến binh tài hoa, tinh tế.
Hai bài thơ của Trần Ngọc Phượng
Hồn thiêng xin được độ trì nước non
Bao năm lạnh lẽo rừng giả
Đón anh về với quê nhà thân thương
Mẹ Cha một nắng hai sương
Nuôi anh vất vả trăm đường gian truân
Đò xưa lưu luyến bước chân
Hình Cha bóng Mẹ tần ngần nhìn theo
Anh đi vượt thác băng đèo
Tuổi xuân bay bổng, cánh diều vi vu
Giờ vế tìm tiếng Mẹ ru
Võng đưa kẽo kẹt, tre đu gió hè
Thủy chung trọn vẹn lời thề
Cốt xuông một nắm, Hồn quê một đời
Quê mình giầu có lên rồi
Trẻ thơ ríu rít, thăm tươi khăn quàng
Hương hoa phủ kín nghĩa trang
Tên anh liệt sĩ, xóm làng khắc ghi
Tháng Bảy đến, Tháng Bây đi
Hồn thiêng xin được độ trì nước non
Mâm cơm giỗ bạn ngày họp mặt - Ảnh TNP cung cấp.
Bên nấm mộ vô danh
Tặng hương hồn em Thanh Tề
Thắp nhang lên
Thấy em hiện về
Nheo mắt cười tinh nghịch;
“Chúng mình dễ gì chết
Bom đạn tránh mình, Mình tránh chúng làm chi”
Buổi chiều em ra đi
Mưa giăng giăng ngoài lộ
Áo xắn tay,
Tiểu liên quàng trước cổ
Em hiên ngang đi trước hàng quân
Em ngã xuống
Tư thế tiến công
Trong trận đánh
Quân thù đông gấp bội
Xác để lại
Bên cánh rừng lầy lội
Buổi chiều hoang tê tái mưa sa
Mấy chục năm qua
Đồng đội gắng công
Mẹ cha ta khó nhọc
Vái bốn phương trời
Chưa tìm thấy mộ em
Đất nước mình mênh mông
Cong cong hình chữ S
Làm sao anh đi hết
Vạn nấm mộ vô danh
Ngàn tượng đài liệt sĩ
Sao lúc hiện về
Em không chỉ
Nấm mộ nào là nấm mộ của em?
Chỉ thấy em về
Nheo mắt cười tinh nghịch
“Chúng mình dễ gì chết
Nếu chết rồi dễ gì mất xác
Mất xác rồi còn nấm mộ vô danh.