TIN TỨC

Người lữ khách trên những dốc tình Đà Lạt

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
2333 lượt xem

                                                                                                                                                                                                                                                                                                                                               Dung Thị Vân

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) – Nhà thơ Nguyễn An Bình tên thật là Lương Mành – Hội viên Hội Nhà văn TP Cần Thơ. Khi chuyển về TP. HCM sinh sống, anh được kết nạp vào Hội Nhà văn TP. HCM. Nguyễn An Bình là một người làm thơ trước 1975. Thơ anh đã được đăng tải trên các báo thời bấy giờ như: Văn, Văn Học, Tuổi Ngọc, các tuần báo nhật báo khác như Tiền Phong, Phụ Nữ Ngày Mai, Phụ Nữ Diễn Đàn, Điện Tín, Việt Nam,Tin Sáng, Thời Đại Mới, Sống. Thăng Tiến, Trắng Đen… Sau 1975, Nguyễn An Bình cộng tác với rất nhiều báo, tạp chí trong và ngoài nước.


Nhà thơ Nguyễn An Bình.

Các tác phẩm của nhà thơ Nguyễn An Bình đã xuất bản cho đến tập thơ ĐÀ LẠT, TÌNH TÔI NGƯỜI LỮ KHÁCH tổng cộng là 12 đầu sách (thơ) 05 đầu sách (thơ phổ nhạc), 01 tập truyện ngắn và rất nhiều sách in chung (nhiều tác giả).

Đọc tựa tập thơ tôi hết sức ấn tượng. Bởi vì anh không sinh trưởng tại Đà Lạt, tỉnh Lâm Đồng mà anh lại dành trọn vẹn một tập thơ viết về vùng đất cao nguyên này với rất nhiều địa danh của tỉnh Lâm Đồng mà thành phố Đà Lạt là địa danh chính để dệt nên những bài thơ tình lãng mạn.

Mở đầu cho một tập thơ viết về Đà Lạt anh chọn địa danh hồ Tuyền Lâm ở Đà Lạt là bài thơ đầu tiên trong tập thơ. Phải chăng kỷ niệm đã thôi thúc nhà thơ không thể nào không tìm lại em của mười lăm năm về trước. Nhà thơ đi tìm để thấy nỗi lòng buồn bã như câu thơ than thở “ thời gian thành vết sẹo dài đó em. Tình yêu mà ví von như một vết sẹo dài thì ắt hẳn tình yêu đó chẳng bao giờ quên được. Vết sẹo là ấn tượng cho một vết hằn, mà đã là vết hằn thì muôn đời còn để lại dấu vết, hẳn nhà thơ sẽ đau thương vô cùng. Nhưng yêu mà không nhớ không buồn thì chẳng phải là tình yêu. Cho dù bóng chim trời có bay đi thì những dòng thơ anh vẫn dệt vẫn viết cho người. Ta hãy nghe dòng thơ anh tâm sự:

Về đây tìm lại một người

Mười lăm năm bóng chim trời đã bay

Hàng cây trốn gió chiều nay

Thời gian thành vết sẹo dài đó em

(Bên hồ Tuyền Lâm)

Thế rồi những hẹn hò lại dẫn dắt thơ anh từ Đà Lạt xuống B’ Lao (Bảo Lộc) với khoảng cách 115 km. Và từ Bảo Lộc đi vào Đại Bình khoảng 15km. Nhưng khi đã yêu thì như ông bà cha ta đã nói “Mấy sông cũng lội mấy đèo cũng qua”. Vậy thì 130 km có là bao khi mà người tình đã hẹn.

Người hẹn ta về phố núi

Đợi nhau lên dốc Đại Bình

Sa-Pung một màu sương đục

Cùng chờ tia sáng bình minh

(B’Lao tình đất tình người)

Tình yêu thực màu nhiệm khiến người ta luôn thốt lên câu cảm ơn bao quát cả một địa danh. Em ở Đà Lạt cho tôi phải cám ơn người Đà Lạt. Những từ thật hay và lãng mạn như: “Tóc người ngái ngủ / tím sương hồ”. Để chứng minh cho tấm lòng của mình, thì Nguyễn An Bình cũng vậy…

Lại nhớ rồi. Em, một sớm mai

Tóc người – ngái ngủ ở trên vai

Mấy chiếc lá. Bay, tràn qua ngõ

Chắc tím sương hồ – vào tối nay

Cho tôi cám ơn. Người Đà Lạt

Đến giữa đời nhau. Thật bao dung

Núi đồi. Cứ giữ tình tôi nhé

Dù mới xa rời. Mấy bước chân

(Cám ơn người Đà Lạt)


Tập thơ “Đà Lạt, tình tôi người lữ khách” của Nguyễn An Bình.

Nhà thơ luôn tự hỏi về tất cả… nào hoa lá nào cỏ cây. Liệu “Trăm năm biết có bể dâu tương phùng”. Tình yêu luôn là những điều tự hỏi rồi được trả lời trong thinh lặng cùng nỗi lòng tưởng tượng. Phải có những nỗi niềm như thế mới là yêu và nhà thơ mới có được những bài thơ tình lãng mạn cho người đời đọc… Đà Lạt là xứ hoa đào đẹp lãng mạn cũng đã đi vào thơ của Nguyễn An Bình, nhà thơ ví như hoa thả trên vai em rồi “rụng xuống hồ hồng cả cõi thiên thu”.

Người về vui với cỏ hoa

Có hay chiếc lá thương tà áo bay

.

Rồi mai nắng quái lưng đèo

Mưa đêm Đức Trọng sương chiều B’ Lao

.

Bên hồ lặng ngắm mưa ngâu

Trăm năm biết có bể dâu tương phùng

(Cỏ hoa cùng người)

Chẳng phải loài hoa nào cũng níu giữ mùi hương

Níu cả nhớ thương đi qua quảng đời trai trẻ

Có phải em ngồi ngắm hoa đào – vừa nở sáng nay

Lại hãi sợ ngày mai biết đâu không còn nữa

Sợ những cánh đào phai sẽ rụng đầy trước cửa

Bên bờ Xuân Hương, nhuộm cả nước Tuyền Lâm.

Ngày sắp hết trên ngọn đồi thênh thang gió

Những cánh hoa đào – thả trên vai em bỏ ngỏ

Chao rụng xuống hồ hồng cả cõi thiên thu.

(Có mùa hoa đào giấu trong mắt em)

Núi đồi Đà Lạt luôn là hình tượng cho người thơ thêu dệt một mối tình. Từ một quán nhỏ ven hồ bên ly cà phê nóng và cả đến màu áo, sợi tóc cũng cho người thơ những câu thơ tình tuyệt đẹp và thơ mộng.

Ta cùng quán nhỏ ven hồ

Ly cà phê nóng cuộc trò chuyện vui

Ghế thôi đã lạnh chỗ ngồi

Biết ai xuống núi lên đồi tìm nhau.

(Còn ai xuống núi lên đồi tìm nhau)

Nói đến Đà Lạt là người ta luôn liên tưởng đến núi đồi, thác ghềnh và những loài hoa tuyệt đẹp tượng trưng cho Đà Lạt như hoa đào, mimosa, phượng tím. Hầu như tới mùa hoa nở ai cũng muốn mình có dịp đến để ngắm hoa và chụp những tấm hình làm kỷ niệm. Với nhà thơ Nguyễn An Bình tình yêu cũng đã đan xen vào mùa phượng tím lãng mạn trữ tình dù chỉ là phượng tím cuối mùa còn sót lại. Nhưng tình yêu thì vẫn trinh nguyên lời hẹn. Hầu như đa số địa danh anh đã đi qua. Nhất là những cơn mưa phùn Đà Lạt vừa lạnh, vừa đẹp, vừa buồn và kể cả phải chia tay nhau cho dù xót xa nhưng câu thơ vẫn đẹp và mộng mị. Với anh. Đà Lạt dường như nơi nào anh cũng có quá nhiều kỷ niệm để dệt nên những bài thơ vương vấn.

Cành phượng tím đã tàn chưa em nhỉ?

Đã bao năm em chẳng nhớ nơi nầy

Mimosa vàng cả một trời mộng mị

Tôi bốn mùa vẫn giữ nụ tình phai.

Người về đâu qua bao mùa hạ trắng

Ngủ trong tôi một giấc mộng dài lâu

Thương phượng tím cuối mùa còn sót lại

Vẫn trinh nguyên lời hẹn thuở ban đầu.

(Cuối mùa phượng tím)

Thơ Nguyễn An Bình là những dòng thơ trữ tình du dương mật ngọt. Cho dù có phải chia xa thì lời thơ anh cũng vẫn vỗ về em cho ta linh cảm dù chia xa nhưng anh vẫn mong ngày gặp lại. Nhất là phải chia xa vào những ngày mưa phùn Đà Lạt nó đẹp và thơ biết chừng nào. Phải chăng lời chia tay của nhà thơ vào cơn mưa phùn Đà Lạt chỉ là những dỗi hờn trong chốc lát. Để niềm đau hạnh ngộ chắc hẳn sẽ không như thơ và tình yêu sẽ trở về. Nên những bài thơ của tác giả vẫn cứ lần lượt ra đời với bao nỗi yêu thương và nhớ nhung về Đà Lạt.

Những con dốc một thời em đã đi qua

Cố giấu nỗi buồn và tiếng thở dài xa ngái

Tôi gởi lại núi đồi những buổi chiều mê ngủ

Dây hoa móng rồng xanh níu chân khách lữ

Có mấy bậc thang rêu phong của từng con dốc

Không tìm thấy người thiếu phụ đi tìm bông hoa

Mang tên hạnh phúc cho cuộc đời mình

Mỗi người chúng ta đều giữ trong lòng một ước mơ thầm kín

Ngát hương của một thời tuổi trẻ

Tôi sẽ chẳng còn gặp em ở bất cứ đâu bất cứ nơi nào

Trong một Đà Lạt khói sương trùng trùng mộng dữ

Niềm đau hạnh ngộ sẽ không dành cho một ai

Trong hai chúng ta khi thời gian

Viễn du vào không gian đầy huyễn hoặc

Chia tay cơn mưa phùn Đà Lạt

Chia tay em nhé.

(Chia tay em cơn mưa phùn Đà Lạt)

Thơ Nguyễn An Bình mỗi câu thơ đọc lên âm vang như lời của nhạc. Cho nên vì thế mà phải nói rằng anh rất bén duyên với đa số nhạc sĩ. Thơ anh được phổ nhạc rất nhiều. Tôi được biết tính đến nay ( tháng 9/2021). Anh đã có cả ngàn bài thơ được các nhạc sĩ phổ nhạc. Tiện đây tôi cũng xin chúc mừng anh. Vì không phải ai cũng có duyên được các nhạc sĩ phổ thơ của mình.

Với Đà Lạt / Lâm Đồng cứ đến mùa hoa quỳ thì hai bên đường những nơi nào còn cỏ mọc thì nơi đó còn những bụi hoa dã quỳ vàng rực nhìn đẹp đến nao lòng. Bởi vậy nhà thơ Nguyễn An Bình đã dành cho loài hoa dại ở xứ cao nguyên những câu thơ hết sức ấn tượng và người thi sĩ trong thơ đã phủ phục trước một loài hoa dại đầy đắm mê này cho dù những câu thơ anh chỉ là chiêm bao ma mị.

Xin cho tôi hôn từng cánh hoa dã quỳ

Dẫu biết đó chỉ là giấc chiêm bao

Dẫu lắt lay trong nắng sớm mưa chiều và từng đêm trở gió

Vẫn thấy em ngụ trong tim làm tôi ngạt thở

Khi xe vừa lăn qua Liên Khương, Đức Trọng, Di Linh

Khi xe vừa cắm cúi xuống đèo Bảo Lộc, Đèo Chuối

Đem tôi về lại đồng bằng gió bụi mênh mông

Ôi cánh đồng hoa dã quỳ vẫn nở suốt mùa đông

Và mái tóc em dịu dàng trong chiếc khăn quàng cổ tím

(Dã quỳ thương nhớ)

Nếu là dân Đà Lạt thì ắt hẳn sẽ không ai xa lạ với trái hồng. Đến mùa hồng thì các sạp bán trái cây màu cam đỏ của trái hồng nhìn thật đẹp mắt mà ai nhìn thấy cũng muốn mua về thưởng thức hoặc để làm quà cho người thân.

Không biết những tình cảm đã dẫn dắt và níu kéo như thế nào mà nhà thơ đã thốt nên những câu thơ dành cho em thật thiết tha và trìu mến. Ôi bàn tay em trẩy quả hồng đầu tiên vừa chín tới với lời hẹn ước tháng chạp trở lại tại D’ran đầy thương yêu và nhung nhớ.

Vườn hồng nhà ai vừa chín tới

Phải em – người trẩy quả đầu tiên

Xanh mướt su hào quanh triền núi

Mượt mà như thể bàn tay em?

Tháng chạp ước gì anh trở lại

Nhìn sắc hoa vàng nhớ áo em

Chút tình gới lại D’ran phố

Đồi núi sương mờ trong bóng đêm.

(D’ ran chút tình gởi lại)

Khi đã yêu thì hầu như bất kỳ điều nhỏ nhặt nào cũng khiến người ta yêu và nhớ rồi nhắc nhở. Nguyễn An Bình cứ đi từ cõi đê mê này qua cõi đê mê khác và cảm tất cả những gì nơi em đang sống và thi sĩ đã ví em như nàng tiên từ cổ tích bước ra. Tất cả những điều đó đã là nỗi nhớ quắt quay và nỗi nhớ ấy đã đi theo thi nhân vào giấc ngủ mà khi trở mình nhà thơ đã cảm như “ Đêm trở mình sợi tóc cũng tương tư”. Ôi một câu thơ hay đầy nỗi trăn trở của lòng người mà chỉ có tình yêu mới có thể cảm nhận được.

Tôi vẫn thích ngắm nhìn em như thế

Như nàng tiên từ cổ tích bước ra

Mùi khoai nướng thơm lừng trong cái rét

Đêm trở mình sợi tóc cũng tương tư.

Đà Lạt không quên những ngày mưa cuối

Một người quen ngồi thả lá bên cầu

Trong sương khói bàn tay còn chút ấm

Lạnh đất trời một thuở có tìm nhau?

(Đà Lạt, những ngày mưa cuối)

Nhà thơ Nguyễn An Bình đã viết ĐÀ LẠT, TÌNH TÔI NGƯỜI LỮ KHÁCH với một tập thơ tình đầy lãng mạn về núi đồi cao nguyên Đà Lạt tỉnh Lâm Đồng. Một tập thơ hầu như bài nào cũng hay. Cho nên trích dẫn thực sự tôi cũng không biết phải chọn như thế nào. Bỏ câu nào tôi cũng tiếc. Nhưng cuối cùng tôi cũng không thể nào trích hết vì quá nhiều câu hay. Thôi thì để dành cho bạn đọc sẽ đọc và cảm nhận như những bản nhạc tình đưa hồn mình về với cõi yêu thương nhung nhớ…

Mùa phượng tím rũ xuống đời lầm lũi

Từng giọt buồn lay động tiếng mưa rơi.

Mai xa lắc đồi thông reo xanh mướt

Cà phê thơm môi ngọt tiếng em cười

(Đêm giã từ Đà Lạt)

Em đến nơi nầy từ những cánh rừng mưa

Đà Lạt vấn vương gieo neo tình em ở lại

Tôi lữ khách đâu hiểu hết lòng con gái

Như hoa móng rồng sáng nắng lại chiều mưa

(Đi tìm mùa hoa móng rồng)

Lại nhớ em – những cơn mưa Đà Lạt

Nhớ con đường hồng nhuộm áo đỗ quyên

Khi yêu nhà thơ thường tự hỏi không biết mình nhớ điều gì. Chàng thi sĩ không hỏi em của tình yêu mà hỏi cả một Đà Lạt thân thương khi có bóng hình người yêu mình ở đó. Hẳn là người Đà Lạt thì cà phê Tùng – một quán cà phê mà ai cũng biết, như Hồ Xuân Hương vì đó là những nơi mà người Đà Lạt thường tìm niềm vui bên tách cà phê hay đi dạo trên ven bờ hồ ngắm cảnh nước trời mênh mông dưới hàng cây lãng mạn và chụp những tấm hình ghi một vài kỷ niệm.

Vùng núi đồi Lang Biang tuyệt mỹ theo truyền thuyết của đôi tình nhân mà ai đi Đà Lạt cũng hiếu kỳ muốn biết. Nơi nào cũng là những dấu chân kỷ niệm của nhà thơ. Nên bài thơ nào của anh cũng cứ bâng khuâng hoài niệm về một mối tình tưởng sẽ chia xa, nhưng rồi lại tìm về. Phải chăng đó là nỗi niềm của nhà thơ “Đà Lạt tình tôi người lữ khách”. Vâng, cái vương vương đó là nỗi lòng của nhà thơ. Bởi cái gì mình không thể nào có được trong thực tại thì nó đẹp vô vàn.

Nói như Hồ Dzếnh trong bài thơ Ngập ngừng:

Tình mất vui khi đã vẹn câu thề

Đời chỉ đẹp những khi còn đang dở

Dù đó chỉ là một câu nói trấn an cho một mối tình không trọn vẹn. Chứ ai không mong cầu một hạnh phúc vẹn toàn. Bởi thế mà nhà thơ luôn có những áng thơ tuyệt mỹ về vùng cao nguyên này cho chúng ta cùng thưởng thức. Nơi nào anh cũng đi qua và cũng đong đầy kỷ niệm. Ta hãy cùng nhau đọc những đoạn thơ tình của anh qua rất nhiều địa danh…để hiểu anh đã nhớ thương như thế nào… nhưng sao không là người con của Đà Lạt mà cứ mãi hoài là lữ khách…

Đà Lạt có gì – sao anh nhớ

Giây phút dừng chân chợt nhói lòng

Phải lòng con gái cao nguyên ấy

Một đời thơ thẩn giữa ngàn thông.

(Giữa ngàn thông Đà Lạt)

… Lặng bên hồ Xuân Hương

Con ngựa thồ mắt ướt

Nhớ chiếc bàn cũ kỹ

Trong quán cà phê Tùng

Nghe mùi thơm bốc khói

Lặng lẽ màu thủy chung.

(Lại nhớ về Đà Lạt)

Trở lại Lang Biang núi đã bạc đầu

Nghe trời đất kể chuyện tình bất tử

Ta buồn bã đem trái sầu xuống núi

Mất lối về quạnh quẽ cả ngàn lau.

(Lang Biang ngày trở lại)

Mùa hoa cũ lạc về đâu em nhỉ

Tôi lang thang trôi mất một mùa hè

Em giấu tình trong nụ hoa chưa kịp nở

Để đường về lòng rợp bóng mây

(Những mùa hoa oải hương)

Tạ ơn em – Đà Lạt

Tìm chi dấu thời gian

Thương loài cây trốn gió

Cuộc tình thuở nào tan?

(Tạ ơn người Đà Lạt)

...Tím chi tím quá phượng ơi

Để người phố núi ngậm ngùi chia tay.

Không còn ai mượn bờ vai

Nên se sắt lạnh – Sóng đầy mắt nhau

Bình yên em nhé – Ngày sau

Môi thơm còn giữ một màu tím xưa.

(Thuở Đà Lạt, dịu đang màu phượng tím)

Một Đà Lạt thơ mộng trữ tình đã đi vào thơ của Nguyễn An Bình đến nồng say mê đắm trong những đêm thảo nguyên mênh mông huyền hoặc. Nào mơ về em một mùa cỏ hồng mà người đã trôi theo mùa trăng cổ tích cùng tiếng gió đại ngàn còn thổn thức mãi với thời gian. Phải chăng bãi cỏ là những kỷ niệm một thời yêu nhau mà kết cỏ làm nhẫn. Nhà thơ nhắc khá nhiều về hoa phượng tím. Một loài hoa đến mùa nở mà ai cũng phải trầm trồ. Hoa đẹp và lãng mạn như vậy thì đôi tình nhân nào không một hay nhiều lần ghé đến. Ắt hẳn nhà thơ cũng có rất nhiều kỷ niệm với loài hoa này. Ôi một Đà Lạt cứ để thi nhân phải yêu người ngóng núi… mà không thoát ra khỏi sự nhớ thương…đến rồi đi rồi chờ rồi đợi và tự hỏi ly rượu này đêm nay ai sẽ cùng ta uống cạn…

Đêm thảo nguyên mênh mông đầy huyền hoặc

Sao ngang trời lấp lánh xuống đồi trăng

Trái yêu đương đã qua mùa quả ngọt

Mùa cỏ hồng em có kịp về không?

Người yêu người trôi mùa trăng cổ tích

Gió đại ngàn ngậm tiếng thở thời gian.

(Trăng trên đồi cỏ hồng)

Bao mùa hạt cỏ bay đi

Có ươm lại kiếp xuân thì cho nhau

Đất cằn, khô dấu, mai sau

Vết chân chim, rụng, kiếp nào đã quên.

Vê nghe cỏ hát dưới chân

Vẫn xanh như kiếp tình nhân thuở nào

Tóc người thơm mãi ngàn sau

Một thời nhẫn cỏ hằn đau da người.

(Về nghe cỏ hát)

Đêm Đà Lạt ngày cuối năm ẩm ướt

Mưa bụi giăng giăng hết một kiếp sầu

Hòn sỏi nhỏ ném xuống hồ thinh lặng

Âm sóng vô tình giấu kín vết đau.

Khi ta về nằm trên đồi phượng tím

Đón một vì sao vừa rụng nơi nầy

Hương cỏ dại tiễn chân người xa ngái

Ly rượu buồn ai uống cạn đêm nay.

(Viết trên đồi phượng tím)

Ta yêu người ngóng núi

Yêu sương tím ven hồ

Con sông buồn tiếc nuối

Một cuộc tình vừa xa.

(Yêu người ngóng núi)

Nhạc sĩ Hoàng Nguyên đã viết: “Ai lên xứ hoa đào dừng chân bên hồ nghe chiều rơi…”. Phải chăng vì thế mà Nguyễn An Bình đã trở thành NGƯỜI LỮ KHÁCH TRÊN NHỮNG DỐC TÌNH ĐÀ LẠT. Một Đà Lạt đắm say và đẹp đến nao lòng thì làm sao mà nhà thơ có thể chia xa được. Thôi thì định mệnh có thể đã không cho nhà thơ được một tình yêu trọn vẹn thì xin cho thi nhân cứ mãi hoài làm lữ khách để lâu lâu thi nhân có dịp tìm về đi trên những con đường “nghe chiều rơi” và bâng khuâng nhớ về một thuở. Một thuở em và tôi đã cùng nhau trác tuyệt trong một mối tình…

D.T.V

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nguyễn Minh Châu và sự đổi mới tư duy trong việc phản ánh hiện thực chiến tranh cách mạng
Nguyễn Minh Châu là một trong những nhà văn xuất sắc của nền văn học Việt Nam hiện đại. Sự nghiệp văn học của ông không chỉ gắn liền với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại của dân tộc ở những năm kháng chiến mà còn gắn với những tháng năm đầy ưu tư của thời hậu chiến với bước chuyển dạ diệu kỳ, chuẩn bị cho tiến trình đổi mới đất nước về mọi phương diện, trong đó có văn học.
Xem thêm
Hữu Thỉnh và chiến sĩ xe tăng
Cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước gian nan khốc liệt của dân tộc Việt Nam trong gần một phần tư thế kỷ như một bản trường ca âm vang giai điệu trầm lắng bi hùng, đã phản ánh phẩm chất cao đẹp sáng ngời của mọi tầng lớp nhân dân ở cả ba miền. Những người tham gia vào sự nghiệp cách mạng của dân tộc, cầm súng trực diện đấu tranh với quân thù có những chiến sĩ làm văn nghệ thuộc đủ binh chủng như: Nguyễn Thi (1928-1968), Lê Anh Xuân (1940-1968), … và Hữu Thỉnh. Trong đó, xuất thân từ một chiến sĩ xe tăng, Hữu Thỉnh được coi là một gương mặt thơ xuất sắc nổi trội trong nền văn học có lửa của giai đoạn 1954-1975.
Xem thêm
Lê Quang Sinh và nghệ thuật phê bình thơ
Bài viết của PGS.TS Hồ Thế Hà
Xem thêm
Anh nằm đây – trẻ mãi tuổi hai mươi
Bài viết về thơ Trần Ngọc Phượng
Xem thêm
Lê Tiến Vượng và hai tập lục bát liền hơi
Bài viết của nhà thơ Vũ Quần Phương về hai tập lục bát của Lê Tiến Vượng xuất bản cuối năm 2016 (Lục bát khóc cười) và cuối năm 2018 (Lục bát phố).
Xem thêm
“Gặp” lại nhà văn Lưu Thành Tựu với “Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5”
Nhà văn Lưu Thành Tựu hiện là phó ban điều hành phân hội văn học, hội văn học nghệ thuật Bình Dương. Truyện ngắn Hoa xương rồng trên cửa sổ tầng 5 của anh là tác phẩm đạt giải tại Cuộc thi truyện ngắn Đông Nam bộ năm 2022, đã đăng trên vanvn.vn và Tạp chí Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh như một sự ra mắt sau khi tác giả được kết nạp vào Hội Nhà văn Việt Nam.
Xem thêm
Chất Folklore trong Lục bát khóc cười và Lục bát phố
Cầm hai tập thơ thuần thể loại lục bát quen thuộc, nghĩ đọc cũng hơi ngại bởi cứ đều đều một điệu, dễ chán. Nhưng đọc một vài bài mở đầu trong tập “Lục bát khóc cười” và “Lục bát phố” của Lê Tiến Vượng thì cảm giác ấy dần mất đi và thay vào đó là cảm giác hào hứng và thú vị.
Xem thêm
Trăn trở sự tồn tại người - Gía trị nhân bản trong thơ Văn Cao
Đọc thơ Văn Cao, ở nhiều thi phẩm như: Chiếc xe xác qua phường Dạ Lạc, Những người trên cửa biển, Khuôn mặt em, Một đêm đàn lạnh trên sông Huế, Lá, Trôi, Thời gian, Cánh cửa, Thu cô liêu, Năm buổi sáng không có trong sự thật, Ba biến khúc tuổi 65, Linh cầm tiến… bạn đọc cũng có thể thấy sự đa dạng cung bậc cảm xúc, có xôn xao, có sâu lắng bâng khuâng… nhưng dường như chủ đạo vẫn là những thì thầm tự vấn, suy tư trăn trở, đau buồn và thậm chí nhiều khi hoang mang, kinh hãi, lo âu. Phải chăng, tất cả những thể nghiệm cảm xúc nội tâm ấy bắt nguồn sâu xa từ những “chấn thương” tinh thần của tác giả bởi tác động của hoàn cảnh sống? Và dưới tầng sâu lớp ngôn từ của mỗi thi phẩm ẩn giấu bao mỹ cảm mà chúng ta cần suy ngẫm“giải mã”?
Xem thêm
Nguyễn Trọng Tạo mà đời vẫn say, mà hồn vẫn gió
Hôm nay 12/6, Nhà lưu niệm nhà thơ, nhạc sĩ Nguyễn Trọng Tạo (1947-2019) được khánh thành tại đội 6, xã Diễn Hoa, huyện Diễn Châu, tỉnh Nghệ An.
Xem thêm
Số phận các nhân vật nữ trong tập truyện ngắn “Đảo” của Nguyễn Ngọc Tư
Nhà văn Nguyễn Ngọc Tư Sinh năm 1976 tại xã Tân Duyệt, huyện Đầm Dơi, tỉnh Cà Mau, là nhà văn, Hội viên Hội nhà văn Việt Nam. Năm 2018, cô được trao Giải thưởng Văn học Liberaturpreis 2018 do Litprom (Hiệp hội quảng bá văn học châu Á, châu Phi, Mỹ Latin ở Đức) bình chọn, dựa trên việc xem xét các bản dịch tiếng Đức tác phẩm nổi bật của các tác giả nữ đương đại tiêu biểu trong khu vực. Giải thưởng được trao hàng năm nhằm vinh danh các tác giả nữ đến từ châu Á, Phi, Mỹ Latin, Các tiểu vương quốc Ả Rập thống nhất (UAE) và vùng Caribe.
Xem thêm
Lê Khánh Mai và hành trình nhà thơ nữ bứt phá
Nhà thơ, nhà văn Lê Khánh Mai đến nay (năm 2024) đã ấn hành 12 đầu sách, trong đó có 7 tập thơ, 1 tiểu thuyết, 1 tập truyện ngắn, 1 chuyên luận văn học, 1 tập tiểu luận phê bình văn học, 1 tập tản văn và tuỳ bút. Sức sáng tạo ở một tác giả nữ như vậy là liên tục và rất mạnh mẽ. Thơ là thể loại chính của ngòi bút Lê Khánh Mai nhưng văn xuôi và lý luận, phê bình cũng đạt nhiều thành tựu. Tất cả làm nên tên tuổi của một nhà thơ, nhà văn tiêu biểu của tỉnh Khánh Hoà và của văn học Việt Nam hiện đại.
Xem thêm
Trần Đàm đi tìm một bản ngã
Đã ngoài tám mươi mà mỗi lần theo ông, cánh hậu sinh chúng tôi cách ông cả giáp vẫn thấy hụt hơi. Đúng là không nói ngoa cả khi leo dốc, đường trường lẫn khi viết lách, chơi bời.
Xem thêm
Đọc Người xa lạ của Albert Camus bằng chiếc gương soi của chủ nghĩa hiện sinh
Giàu Dương Nếu triết học cổ điển đề cao bản chất và dấn thân vào việc tìm kiếm những định nghĩa về bản chất, thì trào lưu hiện sinh tập trung vào sự tồn tại của bản thể, lấy đó làm điểm khởi nguyên cho mọi sự phóng chiếu vào thực tại khách quan. Người xa lạ (L’Étranger) của Albert Camus ra đời như một dấu ấn sâu sắc của triết thuyết hiện sinh ở giai đoạn nửa sau thế kỷ XX. Là một triết gia, nhà văn tài hoa, Camus đã mở ra những cánh cửa để người đọc bước vào thế giới của “kẻ xa lạ” Meursault – một người đàn ông tự mình chọn lấy thế đứng bên lề của xã hội. Hành trình của Meursault không đi tìm một kết luận duy nhất của sự tồn tại mà chỉ trình bày sự tồn tại như nó vốn là.
Xem thêm
Một thế giới rất ‘đời’ trong sáng tác của Tản Đà
Nhà thơ, nhà báo Tản Đà (SN 1889), quê làng Khê Ngoại, xã Sơn Đà, huyện Bất Bạt, tỉnh Sơn Tây.
Xem thêm
Cây có cội, nước có nguồn
Nguồn: Báo Văn nghệ số 19/2024
Xem thêm
Khát vọng Dế Mèn
Sự ra đời của Giải thưởng Dế Mèn cùng với phát ngôn của đại diện Hội Nhà văn Việt Nam đã chạm đến khát vọng lâu nay vẫn nằm đâu đấy trong những người yêu và hiểu rõ hiện trạng văn học thiếu nhi nước nhà…
Xem thêm