TIN TỨC

Cát lặng im nghe sóng biển cười

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-07-17 16:02:44
mail facebook google pos stwis
1020 lượt xem

Mai Văn Phấn

(Đọc tập thơ "Cát lầm" của Văn Đắc, NXB Hội Nhà văn, 2022)

Thành phố nghiêng tai về phía mặt trời

Văn Đắc

(Vanchuongthanhphohochiminh.com) - Nhà thơ Văn Đắc đã xuất bản 11 tập thơ. Ngay từ tập thơ đầu tay "Hai triền sông" (NXB Văn học, 1973) và trong suốt hành trình sáng tạo, thơ ông luôn gắn bó với miền đất Thanh Hóa. Khảo sát các tập thơ của ông cho thấy, một số hình ảnh đặc trưng của vùng đất này đã làm nên mẫu gốc (archétypes) hay còn gọi là cổ mẫu, nguyên tượng trong thơ Văn Đắc. Một trong những mẫu gốc quan trọng tạo nên rường cột không gian thơ của ông chính là cát. Cát là nơi nhà thơ khởi nguồn sáng tạo, là mẹ thiên nhiên vĩ đại ấp ủ nuôi dưỡng ông, là bạn thân luôn song hành, và là cả người thầy dạy dỗ ông nữa. Cát trong thơ ông là người. Đời cát là thân phận người, nơi khởi sinh và nuôi dưỡng nguồn cảm xúc sáng tạo bất tận trong thơ Văn Đắc.

Bìa tập thơ Cát lầm

 

Trong bài thơ "Với cát" trước đây ông từng viết:

 

“Với cát, thời nhỏ cởi trần

Chạy trên cát

Ta lẫn vào với cát".

 

Văn Đắc đã trải nghiệm mọi cung bậc cảm xúc với cát, từng "thiên biến vạn hóa" cùng cát, "Cát nhập vào mây, mây nhòa vào cát" (Bất chợt một lần trăng); đó là nơi "Nơi cát trắng ùn lên nỗi nhớ" (Tâm sự với con đường), "Đường dọc miền Trung ngờm ngợp cát" (Dọc đường Nhà Nguyễn) từng in dấu chân ông. Giờ đây Văn Đắc trở về bên cát bằng tâm thế tĩnh lặng, khác thường. Tháng 5/2022 ông vừa ra mắt tập thơ có tiêu đề khá khiêm cung, tĩnh tại mà nội lực thâm hậu: "Cát lầm".

 

Cát lầm vốn là loại cát lấm láp, dấp dính, quấn quyện vào nhau. Đó là loại cát cuộn lầm lên che lấp những giá trị, những vật bên cạnh nó. "Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh" ("Kiều" của Nguyễn Du). Hay, "Sông Bồn gần chốn cát lầm" ("Tỳ bà hành" của Bạch Cư Dị. Bản dịch của Phan Huy Thực).

 

Song, "Cát lầm" của Văn Đắc còn mang những nội hàm khác, trĩu nặng mà phát sáng, nhẫn nhịn và can đảm. Nhà thơ viết tập thơ này khi đã bước qua tuổi tám mươi, cái tuổi "xưa nay hiếm". Thơ ông giai đoạn này thanh thản như những hạt cát đã qua những tháng ngày cuộn chảy theo dòng, từng phiêu du, lại cũng từng lắng đọng... giờ đây vẫn đầy ắp những cảm xúc lãng mạn đắm say như thuở nào từng lấp lánh, nhưng trầm tĩnh và tự tin hơn trước. Xuyên suốt tập thơ là nối tiếp những chân dung "Cát". Hạt cát của Văn Đắc là những gương mặt người, cần cù và lầm lũi, gắn bó và nhân hậu ở miền đất đầy gió và ầm ào sóng biển.

 

"Rồi từ thăm thẳm đêm sâu

Tiếng quê ríu rít gọi nhau cùng về" (Cát lầm).

 

Con người xứ Thanh hiện lên trong thơ ông thật đẹp và bản lĩnh. Miền đất xứ Thanh đã kết tinh cho họ những phẩm chất giá trị của người miền Bắc và người miền Trung. Đó là sự can trường, tháo vát, tính quyết đoán và đầy nghị lực:

 

"Có người, rất nhiều người, lớp lớp người

Vùi trái tim vào cát

Mọc

Hai bờ sông xanh" (Sau cơn mưa).

 

Những hạt cát, từ chốn “cát lầm”, đã hòa trộn vào nhau, nương tựa nhau tầng tầng lớp lớp để tạo thành cồn cát rộng lớn, vững bền; tạo nên hồn cốt vùng đất "địa linh nhân kiệt" này. Phải chăng đó là chân dung những con người xứ Thanh hiện lên qua nét bút tài hoa của thi sĩ Văn Đắc:

 

"Khi vui ngón trỏ vẽ vời

Khi buồn ngón ngắn, ngón dài tựa nhau" (Làng con gái).

 

Hay:

 

"Thành phố vừa đặt bàn chân

Rất nhiều người theo về

Tập làm chim trong nhà

Hót những bài ca lú lẫn" (Làng ta).

 

Chữ "lú lẫn" thực sự xuất thần trong câu thơ trên, nó cho thấy nhà thơ giữ được sự uyên bác trong cái thơ ngây rất thi sĩ của ông. Nhân vật trong khổ thơ trên là người hay chim? Đây là một ranh giới mờ nhòe, mà có lẽ, chỉ có được trong thơ Văn Đắc. Ranh giới ấy đã tạo dựng một không gian kỳ ảo, mở rộng thêm đường biên tưởng tượng cho bạn đọc. Phải chăng đó là phần vô thức tập thể, bản năng cộng đồng bất ngờ trỗi dậy tạo thành sức mạnh đoàn kết, gắn bó nhau trong những thời điểm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Chính vô thức ấy đã sinh ra huyền thoại, những câu chuyện thần thoại xứ Thanh vẫn được lan truyền từ đời này qua đời khác.

 

Bị ám ảnh bởi tiêu đề tập thơ, tôi thấy "Cát lầm" của Văn Đắc thường sáng lên khi gặp những câu thơ trong trẻo, tràn đầy cảm xúc. Hình ảnh một vùng quê hiện ra từ mắt "Búp bê" trong đoạn thơ dưới đây thật quyến rũ và đầy bất ngờ:

 

"Từ trong mắt

Búp bê

Cả một vùng quê

Mát trong

Giếng ngọc" (Búp bê).

 

Cát trong tập thơ này thường biến ảo, ẩn hiện, đa dạng. Cát có lúc gối vào cát tựa như người tiếp bước chân người để làm nên những hành trình mới cho thành phố của Văn Đắc:

 

"Thế là thành phố của tôi

Bước qua nghìn bậc vai người mà đi" (Thành phố của tôi).

 

Có lúc tác giả lại cố ý làm cho cát lu mờ đi trong những ảo ảnh thoáng chốc. Nhưng những thi ảnh như được che bớt đi ấy lại hắt sáng một vùng không gian khác, tạo nên những hiệu ứng thị giác mới lạ, mở cho bạn đọc những nhãn quan mới như có thể nhìn sâu vào bên trong từng sự vật.

 

"Nhớ một nửa... mong chờ một nửa

Cát giấu mình vào phố biển ưu tư" (Nơi ấy).

 

Hay:

 

"Đêm về

Tôi có một giấc mơ đi trong tiếng đàn như ma ám,

đi trên mái nhà cao tầng như đi trên cát." (Nơi ấy).

 

Tập thơ này cho thấy Văn Đắc có thi pháp khá phong phú và đa dạng. Tựa như một ca sĩ có âm vực rộng, thơ ông có lúc đắm say, lãng mạn, lúc lại buông thả, phóng giật, tạo những xung động mạnh mẽ:

 

"Giữa mênh mông biển

Lửa từ đâu ùa sang hừng hực cháy

Tiếng nổ

Tia chớp

Biển đỏ ngầu

Cát lầm dạt vào đảo đá

Biển bất ngờ bị đánh úp" (Viết ở thành phố biển).

 

Mỗi nhà thơ dường như gắn bó với một vùng đất, thường là nơi họ được sinh ra và dù có đi xa đến đâu thì nơi chôn nhau cắt rốn ấy luôn là chốn khởi nguồn cảm xúc sáng tạo. Cố thi sĩ Nguyễn Phan Hách là một ví dụ. Cho đến khi giã từ cõi tạm, Nguyễn Phan Hách luôn đau đáu nhớ về làng Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nơi ông đã từng viết bài thơ "Làng quan họ", trong đó có những câu thơ cho bạn đọc thuộc nằm lòng.

 

"Sông Cầu làm bao xanh

Ngang lưng làng Quan họ

Những cánh buồm nhớ thuơng

Câu ca đầu ngọn gió".

 

Hay, Nguyễn Quang Thiều là nhà thơ gắn bó với Làng Chùa (xã Sơn Công, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây; nay thuộc Hà Nội). Trong bài thơ "Bài hát về cố hương" nhà thơ tỏ bầy tình yêu với quê hương đến tận kiếp sau.

 

"Tôi xin ở kiếp sau là một con chó nhỏ

Để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi."

 

Với Văn Đắc, quê hương đã gắn vào biệt danh mà bạn đọc gọi ông: Thi sĩ xứ Thanh! Mọi cung bậc tình cảm, tâm trạng cũng như bút pháp của Văn Đắc trong tập thơ "Cát lầm" đã phác họa rõ nét chân dung thi sĩ của ông. Với cá nhân tôi có thể nói, Văn Đắc là nhà thơ viết về xứ Thanh nhiều nhất và cũng hay nhất. Từ mấy năm trước tôi đã rất thích bài thơ “Tôi người Thanh Hóa” gồm 131 câu thơ của ông. Tôi coi đây là một tiểu trường ca xuất sắc viết về Thanh Hóa. Trong đó tôi nhớ mãi câu thơ vạm vỡ khắc họa tính cách con người xứ Thanh của ông:

 

“Thích thì vác đá xây thành

Uất thì chọc thủng trời xanh mà cười”.

 

Thi tập "Cát lầm" vẫn giữ nguyên vẹn tình yêu cháy bỏng với quê hương của ông, nhưng lắng sâu và đằm thắm hơn. Câu thơ sau đây cho thấy ông đã đi từ sự phóng khoáng, ngổn ngang đến sự giản dị. Bạn đọc cũng thấy được nhà thơ đã bước vào cái tuổi gạt bỏ mọi sự phù hoa, như cố ý xóa đi mọi dấu vết của thủ pháp, lấy xúc cảm chân thành làm căn cốt cho sự sáng tạo.

 

"Trời Thanh Hóa của tôi là cái vó

Thả lúc nào cũng vớt được tôi lên" (Cát lầm).

 

Câu thơ ấy cho thấy Văn Đắc đang an nhiên, tĩnh tại nơi làng Triều bên biển Sầm Sơn quê hương ông. Nơi ấy cát vẫn không ngừng chuyển vần cùng con người và mảnh đất thiêng xứ Thanh. Và trong tâm thức ông, "cái vó" trời xứ Thanh luôn buông thả trên đầu, dù có "vớt" ông lên hay sẽ "vớt", thì tâm hồn ông luôn thơ ngây và trong suốt, bởi ông là "người Thanh Hóa”.

 

Đất Thanh Hóa thời nào cũng sinh ra những nhân kiệt cả văn lẫn võ, cũng là nơi khởi sinh các huyền thoại cho dân tộc Việt từ xa xưa. Tôi tâm đắc với nhận xét của PGS.TS Hỏa Diệu Thúy viết về miền đất và con người xứ Thanh như sau: "Dòng sông Mã chảy qua nhiều vùng đất nhưng về đến xứ Thanh mới cất lên thành những câu hò hào hùng da diết, cõi Nam nhiều hang động kỳ thú nhưng chỉ có động Bích Đào của xứ Thanh mới có huyền thoại người kết duyên với tiên, biển Việt Nam dài hơn ba ngàn cây số nhưng chỉ ở xứ Thanh mới sinh ra vị thần trấn giữ biển cả... Nói thế để thấy, mảnh đất có yếu tố “khởi nguồn” và “hội tụ” này đúng là nơi “được lựa chọn” để tạo ra những giá trị".

 

Thơ Văn Đắc qua các tập thơ đã hội tụ đầy đủ khí chất và cả hình tướng của vùng đất và con người xứ Thanh, ông thực sự là thi sĩ đã tôn vinh và làm rạng danh thêm quê hương giầu trầm tích của ông.

 

"Cát lặng im nghe sóng biển cười".

 

Tôi lấy câu thơ trong bài thơ "Nơi ấy" của Văn Đắc làm tiêu đề và cũng thay cho lời kết bài viết nhỏ này. "Cát lầm" của ông đang "nghe sóng biển cười". Xứ Thanh với người khác có thể là mảnh đất để thử thách lòng can trường và nghị lực, nhưng với Văn Đắc, nơi ấy mãi là cội nguồn bất tận của sự sáng tạo. Nhớ có lần trò chuyện qua điện thoại, tôi tò mò hỏi ông động lực nào đã thôi thúc nhà thơ giữ được cảm xúc viết về quê hương lâu bền và luôn tươi ròng như vậy. Văn Đắc tâm sự, ông sinh ra ở làng Triều nghèo khó và lao khổ, khi lớn lên đã từng đi khắp đất nước, nhưng tâm thức ông cứ mãi "loay quay" (chữ của Văn Đắc) về cái nghèo khổ ở làng quê thuở nào. Cái "loay quay" đó luôn ám ảnh, thôi thúc ông; và nhà thơ chỉ có thể giải tỏa nó bằng cách viết về chốn quê thân thương ấy. Cùng với "sóng biển cười", bạn đọc giờ đây được chiêm ngưỡng "Cát lầm" xứ Thanh, quê hương của nhà thơ Văn Đắc, đã vui hơn và lấp lánh hơn.

 

Hải Phòng, 5/2022

M.V.P

 "Giữ gìn và phát huy những phẩm chất ưu tú của người Thanh Hóa" của PGS.TS Hỏa Diệu Thúy. Báo Thanh Hóa ngày 29/01/2020

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bùi Việt Mỹ - Nhà thơ của bức họa ngoại thành thủ đô
Tôi nhớ đầu năm 1991, Bùi Việt Mỹ về làm Chánh văn phòng Hội Văn Nghệ Hà Nội. Lúc ấy nhà thơ Vũ Quần Phương làm Chủ tịch Hội. Sau đó, nhà thơ Vũ Quần Phương chuyển sang làm Tổng Biên tập báo Người Hà Nội, nhà văn Tô Hoài trở về làm Chủ tịch Hội, cho đến năm 1996, khi nhà thơ Bằng Việt đang công tác ở Ủy ban Thành phố được bầu làm Chủ tịch Hội Liên hiệp Văn học Nghệ thuật Hà Nội. Văn nghệ Hà Nội có 9 hội chuyên ngành tới hiện giờ.
Xem thêm
Đi tìm đôi mắt theo suốt đời người
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TPHCM
Xem thêm
Nguyên Hùng với nghệ thuật lắp ghép, sắp đặt - hai trong một
Nguồn: Văn nghệ Công an số thứ Năm, ngày 17/10/2024
Xem thêm
Một cây bút nhạy bén, giàu tình
Nguồn: Thời báo Văn học Nghệ thuật
Xem thêm
Nhà thơ Nguyên Hùng với “Ký họa thơ” và “Trăm khúc hát một chữ duyên”
Phát biểu chia sẻ tại buổi ra mắt 2 tập sách Trăm khúc hát một chữ duyên và Ký họa thơ của Nguyên Hùng
Xem thêm
“Nắng dậy thì” Rọi lòng sâu thẳm
Nắng dậy thì là tập thơ thứ 4 trên hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh. Ở tập thơ này, Nguyễn Ngọc Hạnh thể hiện nỗi buồn thẳm sâu của một tâm hồn nhạy cảm, tha thiết yêu thương và đầy niềm trắc ẩn, như nhà thơ tâm sự: “Cho đến tập thơ này, nỗi buồn vẫn là nguồn mạch thơ tôi” (Thay lời mở). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh biểu hiện nỗi buồn gắn với một vùng quê cụ thể, với tình thân, bạn bè, người yêu, với dòng sông, bến nước, con đò, chợ quê hay cánh đồng làng. Những kỷ niệm thân thương và đau thương cứ “cằn cựa” trong tâm hồn người thơ để có những vần thơ độc đáo, đồng vọng trong lòng người đọc.
Xem thêm
Những vần thơ sáng nghĩa kim bằng
Nhà thơ Trinh Bửu Hoài là người bạn văn tốt của tôi đã quen thân nhau từ năm 1970 khi anh hoạt động văn nghệ ở An Giang. Cách nay hơn 10 năm, sau khi nhà văn quá cố Nguyễn Khai Phong đã vài lần giục tôi làm đơn xin gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam cùng với tán thành của nhà thơ đánh kính Trịnh Bửu Hoài. Dù biết ở Cần Thơ mình là người mồ côi, kém tài lại vụng về trong giao tiếp nên ít có bằng hữu tình thâm, năm 1918, tôi vẫn đánh bạo nghe lời những người bạn tốt xin vô Hội Nhà văn Việt Nam với sự giới thiệu nhiệt tình cùng lúc của các nhà văn : Nguyễn Khai Phong, Trịnh Bửu Hoài, Lê Đình Bích, Lương Minh Hinh, Nguyễn Trọng Tín. Mặc dù biết rằng với mình, con đường về La Mã vẫn còn diệu vợi ! Hôm nay, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đã về với cõi Ly Tao bất diệt, tôi viết bài này để ân tình bày tỏ lòng nhớ ơn anh, một thi sĩ tài hoa nhân cách rất tốt với bạn bè.
Xem thêm
Nội trú trong ta một nỗi buồn
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về “Năm ngón chưa đặt tên” của Đinh Nho Tuấn, NXB Hội Nhà văn 2024
Xem thêm
Thấy gì từ “Ký họa thơ” của Nguyên Hùng?
Bài viết của Lê Xuân Lâm, cộng tác viên tích cực của Văn chương TPHCM.
Xem thêm
Mấy điều bất thường xung quanh bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ
Không phải vì tác giả là người viết kịch, có duy nhất một bài thơ được chọn vào sách “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân, mà bài thơ này có tính bất thường. Trong sách của Hoài Thanh và Hoài Chân có những tác giả sau chỉ có một bài : Thúc Tề, Đoàn Phú Tứ, Vân Đài, Phan Khắc Khoan, Thâm Tâm, Phan Thanh Phước, Hằng Phương, Mộng Huyền. Có hai tác giả được nói đến mà không trích bài nào trọn vẹn là T.T.KH, và Trần Huyền Trân. Vậy thì bài thơ của Đoàn Phú Tứ bất thường ở chỗ nào?
Xem thêm
Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt
Bà Trưng quê ở Châu Phong,Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.Chị em nặng một lời nguyền,Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…(Đại Nam quốc sử diễn ca)
Xem thêm
Về nương bậu cửa kiếm tìm an yên
Bài viết cho cuộc ra mắt tập thơ “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường
Xem thêm
Nguyễn Minh Tâm với ‘Ấm lạnh pháp đình’
Bài viết của nhà văn Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm