TIN TỨC

Cát lặng im nghe sóng biển cười

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-07-17 15:57:49
mail facebook google pos stwis
1724 lượt xem

Mai Văn Phấn

(Đọc tập thơ "Cát lầm" của Văn Đắc, NXB Hội Nhà văn, 2022)

Thành phố nghiêng tai về phía mặt trời

Văn Đắc

(Vanchuongthanhphohochiminh.com) - Nhà thơ Văn Đắc đã xuất bản 11 tập thơ. Ngay từ tập thơ đầu tay "Hai triền sông" (NXB Văn học, 1973) và trong suốt hành trình sáng tạo, thơ ông luôn gắn bó với miền đất Thanh Hóa. Khảo sát các tập thơ của ông cho thấy, một số hình ảnh đặc trưng của vùng đất này đã làm nên mẫu gốc (archétypes) hay còn gọi là cổ mẫu, nguyên tượng trong thơ Văn Đắc. Một trong những mẫu gốc quan trọng tạo nên rường cột không gian thơ của ông chính là cát. Cát là nơi nhà thơ khởi nguồn sáng tạo, là mẹ thiên nhiên vĩ đại ấp ủ nuôi dưỡng ông, là bạn thân luôn song hành, và là cả người thầy dạy dỗ ông nữa. Cát trong thơ ông là người. Đời cát là thân phận người, nơi khởi sinh và nuôi dưỡng nguồn cảm xúc sáng tạo bất tận trong thơ Văn Đắc.

Bìa tập thơ Cát lầm

 

Trong bài thơ "Với cát" trước đây ông từng viết:

 

“Với cát, thời nhỏ cởi trần

Chạy trên cát

Ta lẫn vào với cát".

 

Văn Đắc đã trải nghiệm mọi cung bậc cảm xúc với cát, từng "thiên biến vạn hóa" cùng cát, "Cát nhập vào mây, mây nhòa vào cát" (Bất chợt một lần trăng); đó là nơi "Nơi cát trắng ùn lên nỗi nhớ" (Tâm sự với con đường), "Đường dọc miền Trung ngờm ngợp cát" (Dọc đường Nhà Nguyễn) từng in dấu chân ông. Giờ đây Văn Đắc trở về bên cát bằng tâm thế tĩnh lặng, khác thường. Tháng 5/2022 ông vừa ra mắt tập thơ có tiêu đề khá khiêm cung, tĩnh tại mà nội lực thâm hậu: "Cát lầm".

 

Cát lầm vốn là loại cát lấm láp, dấp dính, quấn quyện vào nhau. Đó là loại cát cuộn lầm lên che lấp những giá trị, những vật bên cạnh nó. "Cát lầm ngọc trắng, thiệt đời xuân xanh" ("Kiều" của Nguyễn Du). Hay, "Sông Bồn gần chốn cát lầm" ("Tỳ bà hành" của Bạch Cư Dị. Bản dịch của Phan Huy Thực).

 

Song, "Cát lầm" của Văn Đắc còn mang những nội hàm khác, trĩu nặng mà phát sáng, nhẫn nhịn và can đảm. Nhà thơ viết tập thơ này khi đã bước qua tuổi tám mươi, cái tuổi "xưa nay hiếm". Thơ ông giai đoạn này thanh thản như những hạt cát đã qua những tháng ngày cuộn chảy theo dòng, từng phiêu du, lại cũng từng lắng đọng... giờ đây vẫn đầy ắp những cảm xúc lãng mạn đắm say như thuở nào từng lấp lánh, nhưng trầm tĩnh và tự tin hơn trước. Xuyên suốt tập thơ là nối tiếp những chân dung "Cát". Hạt cát của Văn Đắc là những gương mặt người, cần cù và lầm lũi, gắn bó và nhân hậu ở miền đất đầy gió và ầm ào sóng biển.

 

"Rồi từ thăm thẳm đêm sâu

Tiếng quê ríu rít gọi nhau cùng về" (Cát lầm).

 

Con người xứ Thanh hiện lên trong thơ ông thật đẹp và bản lĩnh. Miền đất xứ Thanh đã kết tinh cho họ những phẩm chất giá trị của người miền Bắc và người miền Trung. Đó là sự can trường, tháo vát, tính quyết đoán và đầy nghị lực:

 

"Có người, rất nhiều người, lớp lớp người

Vùi trái tim vào cát

Mọc

Hai bờ sông xanh" (Sau cơn mưa).

 

Những hạt cát, từ chốn “cát lầm”, đã hòa trộn vào nhau, nương tựa nhau tầng tầng lớp lớp để tạo thành cồn cát rộng lớn, vững bền; tạo nên hồn cốt vùng đất "địa linh nhân kiệt" này. Phải chăng đó là chân dung những con người xứ Thanh hiện lên qua nét bút tài hoa của thi sĩ Văn Đắc:

 

"Khi vui ngón trỏ vẽ vời

Khi buồn ngón ngắn, ngón dài tựa nhau" (Làng con gái).

 

Hay:

 

"Thành phố vừa đặt bàn chân

Rất nhiều người theo về

Tập làm chim trong nhà

Hót những bài ca lú lẫn" (Làng ta).

 

Chữ "lú lẫn" thực sự xuất thần trong câu thơ trên, nó cho thấy nhà thơ giữ được sự uyên bác trong cái thơ ngây rất thi sĩ của ông. Nhân vật trong khổ thơ trên là người hay chim? Đây là một ranh giới mờ nhòe, mà có lẽ, chỉ có được trong thơ Văn Đắc. Ranh giới ấy đã tạo dựng một không gian kỳ ảo, mở rộng thêm đường biên tưởng tượng cho bạn đọc. Phải chăng đó là phần vô thức tập thể, bản năng cộng đồng bất ngờ trỗi dậy tạo thành sức mạnh đoàn kết, gắn bó nhau trong những thời điểm lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc. Chính vô thức ấy đã sinh ra huyền thoại, những câu chuyện thần thoại xứ Thanh vẫn được lan truyền từ đời này qua đời khác.

 

Bị ám ảnh bởi tiêu đề tập thơ, tôi thấy "Cát lầm" của Văn Đắc thường sáng lên khi gặp những câu thơ trong trẻo, tràn đầy cảm xúc. Hình ảnh một vùng quê hiện ra từ mắt "Búp bê" trong đoạn thơ dưới đây thật quyến rũ và đầy bất ngờ:

 

"Từ trong mắt

Búp bê

Cả một vùng quê

Mát trong

Giếng ngọc" (Búp bê).

 

Cát trong tập thơ này thường biến ảo, ẩn hiện, đa dạng. Cát có lúc gối vào cát tựa như người tiếp bước chân người để làm nên những hành trình mới cho thành phố của Văn Đắc:

 

"Thế là thành phố của tôi

Bước qua nghìn bậc vai người mà đi" (Thành phố của tôi).

 

Có lúc tác giả lại cố ý làm cho cát lu mờ đi trong những ảo ảnh thoáng chốc. Nhưng những thi ảnh như được che bớt đi ấy lại hắt sáng một vùng không gian khác, tạo nên những hiệu ứng thị giác mới lạ, mở cho bạn đọc những nhãn quan mới như có thể nhìn sâu vào bên trong từng sự vật.

 

"Nhớ một nửa... mong chờ một nửa

Cát giấu mình vào phố biển ưu tư" (Nơi ấy).

 

Hay:

 

"Đêm về

Tôi có một giấc mơ đi trong tiếng đàn như ma ám,

đi trên mái nhà cao tầng như đi trên cát." (Nơi ấy).

 

Tập thơ này cho thấy Văn Đắc có thi pháp khá phong phú và đa dạng. Tựa như một ca sĩ có âm vực rộng, thơ ông có lúc đắm say, lãng mạn, lúc lại buông thả, phóng giật, tạo những xung động mạnh mẽ:

 

"Giữa mênh mông biển

Lửa từ đâu ùa sang hừng hực cháy

Tiếng nổ

Tia chớp

Biển đỏ ngầu

Cát lầm dạt vào đảo đá

Biển bất ngờ bị đánh úp" (Viết ở thành phố biển).

 

Mỗi nhà thơ dường như gắn bó với một vùng đất, thường là nơi họ được sinh ra và dù có đi xa đến đâu thì nơi chôn nhau cắt rốn ấy luôn là chốn khởi nguồn cảm xúc sáng tạo. Cố thi sĩ Nguyễn Phan Hách là một ví dụ. Cho đến khi giã từ cõi tạm, Nguyễn Phan Hách luôn đau đáu nhớ về làng Mão Điền, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh, nơi ông đã từng viết bài thơ "Làng quan họ", trong đó có những câu thơ cho bạn đọc thuộc nằm lòng.

 

"Sông Cầu làm bao xanh

Ngang lưng làng Quan họ

Những cánh buồm nhớ thuơng

Câu ca đầu ngọn gió".

 

Hay, Nguyễn Quang Thiều là nhà thơ gắn bó với Làng Chùa (xã Sơn Công, huyện Ứng Hòa, tỉnh Hà Tây; nay thuộc Hà Nội). Trong bài thơ "Bài hát về cố hương" nhà thơ tỏ bầy tình yêu với quê hương đến tận kiếp sau.

 

"Tôi xin ở kiếp sau là một con chó nhỏ

Để canh giữ nỗi buồn – báu vật cố hương tôi."

 

Với Văn Đắc, quê hương đã gắn vào biệt danh mà bạn đọc gọi ông: Thi sĩ xứ Thanh! Mọi cung bậc tình cảm, tâm trạng cũng như bút pháp của Văn Đắc trong tập thơ "Cát lầm" đã phác họa rõ nét chân dung thi sĩ của ông. Với cá nhân tôi có thể nói, Văn Đắc là nhà thơ viết về xứ Thanh nhiều nhất và cũng hay nhất. Từ mấy năm trước tôi đã rất thích bài thơ “Tôi người Thanh Hóa” gồm 131 câu thơ của ông. Tôi coi đây là một tiểu trường ca xuất sắc viết về Thanh Hóa. Trong đó tôi nhớ mãi câu thơ vạm vỡ khắc họa tính cách con người xứ Thanh của ông:

 

“Thích thì vác đá xây thành

Uất thì chọc thủng trời xanh mà cười”.

 

Thi tập "Cát lầm" vẫn giữ nguyên vẹn tình yêu cháy bỏng với quê hương của ông, nhưng lắng sâu và đằm thắm hơn. Câu thơ sau đây cho thấy ông đã đi từ sự phóng khoáng, ngổn ngang đến sự giản dị. Bạn đọc cũng thấy được nhà thơ đã bước vào cái tuổi gạt bỏ mọi sự phù hoa, như cố ý xóa đi mọi dấu vết của thủ pháp, lấy xúc cảm chân thành làm căn cốt cho sự sáng tạo.

 

"Trời Thanh Hóa của tôi là cái vó

Thả lúc nào cũng vớt được tôi lên" (Cát lầm).

 

Câu thơ ấy cho thấy Văn Đắc đang an nhiên, tĩnh tại nơi làng Triều bên biển Sầm Sơn quê hương ông. Nơi ấy cát vẫn không ngừng chuyển vần cùng con người và mảnh đất thiêng xứ Thanh. Và trong tâm thức ông, "cái vó" trời xứ Thanh luôn buông thả trên đầu, dù có "vớt" ông lên hay sẽ "vớt", thì tâm hồn ông luôn thơ ngây và trong suốt, bởi ông là "người Thanh Hóa”.

 

Đất Thanh Hóa thời nào cũng sinh ra những nhân kiệt cả văn lẫn võ, cũng là nơi khởi sinh các huyền thoại cho dân tộc Việt từ xa xưa. Tôi tâm đắc với nhận xét của PGS.TS Hỏa Diệu Thúy viết về miền đất và con người xứ Thanh như sau: "Dòng sông Mã chảy qua nhiều vùng đất nhưng về đến xứ Thanh mới cất lên thành những câu hò hào hùng da diết, cõi Nam nhiều hang động kỳ thú nhưng chỉ có động Bích Đào của xứ Thanh mới có huyền thoại người kết duyên với tiên, biển Việt Nam dài hơn ba ngàn cây số nhưng chỉ ở xứ Thanh mới sinh ra vị thần trấn giữ biển cả... Nói thế để thấy, mảnh đất có yếu tố “khởi nguồn” và “hội tụ” này đúng là nơi “được lựa chọn” để tạo ra những giá trị".

 

Thơ Văn Đắc qua các tập thơ đã hội tụ đầy đủ khí chất và cả hình tướng của vùng đất và con người xứ Thanh, ông thực sự là thi sĩ đã tôn vinh và làm rạng danh thêm quê hương giầu trầm tích của ông.

 

"Cát lặng im nghe sóng biển cười".

 

Tôi lấy câu thơ trong bài thơ "Nơi ấy" của Văn Đắc làm tiêu đề và cũng thay cho lời kết bài viết nhỏ này. "Cát lầm" của ông đang "nghe sóng biển cười". Xứ Thanh với người khác có thể là mảnh đất để thử thách lòng can trường và nghị lực, nhưng với Văn Đắc, nơi ấy mãi là cội nguồn bất tận của sự sáng tạo. Nhớ có lần trò chuyện qua điện thoại, tôi tò mò hỏi ông động lực nào đã thôi thúc nhà thơ giữ được cảm xúc viết về quê hương lâu bền và luôn tươi ròng như vậy. Văn Đắc tâm sự, ông sinh ra ở làng Triều nghèo khó và lao khổ, khi lớn lên đã từng đi khắp đất nước, nhưng tâm thức ông cứ mãi "loay quay" (chữ của Văn Đắc) về cái nghèo khổ ở làng quê thuở nào. Cái "loay quay" đó luôn ám ảnh, thôi thúc ông; và nhà thơ chỉ có thể giải tỏa nó bằng cách viết về chốn quê thân thương ấy. Cùng với "sóng biển cười", bạn đọc giờ đây được chiêm ngưỡng "Cát lầm" xứ Thanh, quê hương của nhà thơ Văn Đắc, đã vui hơn và lấp lánh hơn.

 

Hải Phòng, 5/2022

M.V.P

 "Giữ gìn và phát huy những phẩm chất ưu tú của người Thanh Hóa" của PGS.TS Hỏa Diệu Thúy. Báo Thanh Hóa ngày 29/01/2020

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm