TIN TỨC
  • Truyện
  • Chiếc hộp của má | Truyện ngắn dự thi của Lưu Trần

Chiếc hộp của má | Truyện ngắn dự thi của Lưu Trần

Người đăng : vctphcm
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
1085 lượt xem

CUỘC THI TRUYỆN NGẮN HAY 2022

Má ơi!

Đó là tiếng gọi thân thương của đứa con dành cho mẹ, gọi có mục đích hoặc gọi chỉ để mà gọi; là tiếng của nũng nịu, của mè nheo hoặc yêu sách; hay là tiếng kêu của thảng thốt hoặc kinh ngạc; nhưng cũng có thể là tiếng rên rỉ khi nỗi đau ập đến hay nỗi sợ dâng cao; và biết đâu lại là tiếng nức nở mỗi đêm của ai đó hoặc cô đơn, hoặc buồn tủi, hoặc đang mắc kẹt trong hang động của chính mình. Ờ mà không biết chừng, đó còn là tiếng thốt ra bất chợt, “má nó”.

Không biết bạn cảm nhận thế nào khi gọi “Má ơi”, nhưng với tôi, tiếng gọi này luôn như một chiếc hộp bí ẩn. Một chiếc hộp mở ra - đóng lại - mở ra, cứ mỗi lần lại một khác biệt. Rất lâu rồi, từ cái ngày ba giận dữ hét “Đừng gọi má mày nữa, má mày bỏ tụi mày mà đi rồi” - thì chính từ lúc đó, tiếng “Má ơi” của tôi không còn là chính nó nữa mà trở thành tiếng ùng ục trong cổ họng mỗi đêm gió lạnh, ầm ì trong những ngày mưa to giông lớn và ư ử trong suốt chặng đường dài, thật dài để tôi - một cô bé chưa tròn 7 tuổi trở thành một người khác - người lớn.

Một đứa trẻ theo thời gian rồi cũng trở thành người lớn. Và một đứa trẻ trở thành người lớn khi có mẹ hoặc không có mẹ bên cạnh đã có sự khác nhau, thì việc một đứa trẻ lớn lên không có mẹ vì mẹ nó bỏ đi lại trở thành một vấn đề khác hẳn. Trường hợp của tôi là vậy. Ai cũng nói thế. Ngay cả nhỏ bạn duy nhất của tôi cũng nói rằng “mày đang có vấn đề, hãy thay đổi nó đi”. Khỉ thật! Tất nhiên đây là câu nói xúc phạm ghê gớm. Thay đổi ư? Bản thân nó đã là vấn đề.

*

Mùa xuân năm 1981, khi tôi vừa đầy tháng, cha bỏ qua lời can ngăn của ông nội nhất quyết đưa má và ba chị em chúng tôi lên đây, vùng đất núi nắng bụi mưa lầy. Bấy giờ, đây là vùng đất hứa. Gia đình nội tôi đông con, đất ruộng hợp tác xã chia không đủ công làm, cuộc sống vốn đã vất vả càng trở nên chật vật hơn. Việc gia đình có người thoát ly lên các vùng kinh tế mới luôn được địa phương khuyến khích, cha và má tôi thuộc thành phần trí thức không quen cày bừa nên việc đi lên miền đất mới coi như là cơ hội. Cha thuyết phục nội vậy. Rồi cả nhà tôi khăn gói lên đây.

Nông trường S.T thuộc huyện Tuy Hòa, tỉnh Phú Khánh (bây giờ là tỉnh Phú Yên) - là vùng đất núi rừng mới được khai hoang sau giải phóng 1975. Đây là cộng đồng của những người con tứ xứ, họ đều là những người rời xa quê hương gốc gác về đây với “tiếng gọi của Tổ quốc”, nhưng sâu thẳm là mong tìm được một sự thay đổi, hy vọng ở tương lai. Cha má tôi cũng không ngoại lệ. Cha tôi được phân vào dạy học khối cấp 2 thuộc trường cấp 1 và 2 của nông trường, má tuy có lời hứa từ lãnh đạo nông trường sẽ “tìm cho một công việc phù hợp” nhưng trong thời gian chờ đợi, tạm thời cứ biên chế vào đội sản xuất. Ngày nắng làm đất, ngày mưa trỉa bắp trồng khoai.

Giữa năm đó, nông trường xuống giống đại trà cây cà phê vối, má trở thành công nhân trồng cà phê. Cha làm thầy giáo mỗi sáng cắp cặp đi dạy, tối về chong đèn chấm bài soạn giáo án. Má sáng dậy thiệt sớm luộc chín nồi sắn mì, cho bầy heo ăn, thả bầy gà khỏi chuồng, kêu chị Thương anh Hoài dậy sửa soạn đi học, má đưa tôi gửi nhà trẻ rồi vác cuốc ra lô tạo bồn, làm cỏ cho cây cà phê; tối mịt má về lại quay mòng mòng với lũ con, heo và gà, rồi may vá giặt giũ tới khuya. Ngày nắng má xoay mù trong gió bụi, ngày mưa má dầm dề trong bùn sình, nhìn má lúc nào cũng đỏ quạch màu của đất.

Ông ngoại là ông giáo làng ngày trước, má lại là con gái duy nhất trong nhà nên được ngoại cho đi học như mấy cậu. Cha cũng là một trong những học trò của ngoại. Biết cha má thương nhau, ông ngoại hài lòng lắm, chỉ có ông nội thì tỏ ra ngại ngần “đàn bà con gái chữ nghĩa nhiều không biết làm ăn lại dễ sinh tật”. Nhưng rồi cha má cũng nên duyên chồng vợ. Cha là con trai trưởng trong gia đình với 7 đứa em. Má về làm dâu, ngày nông vụ, má cùng ông bà nội và các em ra đồng, ngày nông nhàn má theo bà nội ngày ngày gánh gánh bánh tráng nặng trịu đón xe ngựa xuống chợ bán. Ngày qua ngày, cha học hành theo đuổi công danh sự nghiệp, má học làm nông học buôn bán mưu sinh. Rồi lần lượt chị Thương, anh Hoài, rồi tôi - bé Nhớ ra đời.

Ở vùng đất này thời tiết lạ dữ lắm. Trời tháng 3 đang chang chang nắng bỗng giông đâu kéo tới rầm rĩ, gió xoáy ngược xuôi rồi mưa như trút hờn trút giận. Những chiều mưa không đi ra lô, má ngồi trầm ngâm bên cửa sổ, nhìn ra ngoài trời. Có lần tôi hỏi: “Má ơi, có phải má thích mưa?”. Má ôm tôi vào lòng “Không, má chỉ nhớ”. Tôi hít hà mùi thơm ngọt nồng của má. “Vậy chớ má nhớ gì?”. Má lặng thinh, mắt đỏ hoe. Má nói xứ này mưa làm người ta thấy chạnh lòng quá, mà không bởi vì mưa, là vì đất. Chỉ cần cơn mưa xuống là cuốn trôi sạch banh, vậy mà khi mưa tạnh đất lại bám dính lấy người. Má nói đất sao giống con người ta quá, cứ lưu luyến hoài, cứ day dứt mãi nên dễ ôm phiền ôm lụy. Má không thích những ngày mưa, nhưng tôi biết má thích những đêm trăng sáng. Tôi vẫn nhớ những đêm trăng ngày còn má, cả nhà tôi ra sân ngồi trên tấm chiếu má trải ngay ngắn cùng nghe cha đàn má ngâm thơ hoặc má lại kể chuyện cổ tích cho chúng tôi nghe, những câu chuyện của má thường có nàng công chúa và chàng hoàng tử. Những đêm trăng má cũng hay làm thơ, má có một chiếc hộp gỗ nhỏ đựng toàn thơ má viết. Tôi còn nhớ câu thơ của má: “Trăng sáng trên đỉnh núi. Tròn xinh mắt em cười” - Má từng nói, đời má đã vậy rồi chỉ mong đời các con đổi khác. Và những đêm trăng êm đềm nghiễm nhiên trở thành thông lệ của gia đình tôi.

Rồi những thứ tưởng là thông lệ hóa ra trở nên không hợp thời. Ngày ấy người ta dùng ánh trăng để tiết kiệm chút tiền đèn dầu chứ không ai lấy nó ra để ngâm thơ, kể chuyện. Rồi nhà tôi cũng giống như bao gia đình khác, những buổi cả nhà cùng nhau trong sân trăng sáng cười nói ngâm thơ bỗng trở thành xa xỉ, ra sân ngồi dưới trăng cũng chỉ để cây đèn dầu trong nhà được nghỉ ngơi. Và những buổi ấy thường không còn có cha bên cạnh. Dạo gần đây cha đi suốt, thời gian cha có mặt ở nhà thì không khí trong nhà cũng lạnh tanh. Tôi không hiểu tại sao má không còn nói cười như trước nữa. Có lẽ như ông Hai Ngô đội trưởng từng nói trong cuộc họp giao ban rằng, ăn cơm độn mà nói chuyện thơ chuyện ca thì có khác nào tự tát vào cái miệng của mình; hoặc có lẽ vì mấy lời xì xào rằng, cha với cô giáo dạy toán ở trường hình như “có cái gì đó”. Có vì lẽ gì thì với nhận thức của tôi ngày đó làm sao hiểu cho nổi. Tôi chỉ biết rằng thèm, rằng nhớ những đêm trăng ngày trước như thèm như nhớ ổ bánh mì thịt cha mua trong lần đi công tác ở thị xã trở về - một ổ bánh mì thịt cắt ra làm ba cho ba chị em. Mỗi lần nhớ, lại thấy nôn nao.

Má rời bỏ chúng tôi vào đêm trăng thiệt tròn. Đêm đó, trăng đủng đỉnh nhú lên trên núi Mái Nhà từ phía xa xa. Đêm yên bình như bao đêm có má, chỉ có tiếng con ễnh ương ngoài vườn nghe đến thê lương. Tôi bật dậy bởi tiếng còi xe hù hụ xé tan cảnh đêm trăng tĩnh lặng. Má về. Tôi cùng chị và anh mình chạy nhanh ra đầu ngõ, nhảy qua luống khoai lang trước nhà, băng qua hàng cà phê nở hoa thoảng hương mùi má, lao nhanh về hướng chiếc xe đang trờ tới. “Má ơi”. Chiếc xe chở má về, chớp đèn liên hồi rồi dừng lại bên gốc cây sung lớn đầu ngõ. Trăng lắc lẻo trên ngọn cây sung. Dưới ánh trăng lạnh lẽo, má nằm trên băng ca, chiếc khăn phủ lên người má trắng chạch, thõng thượt. “Má ơi”. Cú ngã sấp mặt không làm tôi bật khóc như mọi lần. Chỉ cần có má tôi sẽ không đau.

Cả đêm, người ta để má dưới gốc sung đầu ngõ mà không đưa má vào nhà. Nếu có ai đó thắc mắc thì bà Tư Mái tổ trưởng Công đoàn chỉ ậm ừ, chết kiểu đó làm sao đưa vào nhà cho được. Tôi hỏi chị Thương, chết kiểu đó là kiểu gì nhưng chị không nói không rằng chỉ ôm tôi mà khóc. Anh Hoài mắt đỏ hoe chạy ra vườn nhổ hết đám cải má trồng, mấy cành hoa vàng nằm chỏng chơ dưới nắng. Sau này cũng có người nói vầy: má mày là dân trí thức chịu cực không nổi, quen nghĩ xa xôi; nhưng cũng có kẻ độc miệng hơn thì nói: mấy người thi sĩ văn chương gì đó thích bày trò lãng mạn, không quen thực tế, đến chết cũng khác người. Ở đất này, người ta có thể chết do đói, chết do bệnh, chết do lao động quá sức hoặc có thể chết do say rượu, do chồng đánh…  hoặc có nhiều người “muốn chết” nhưng không dám chết, như vụ cô Ngâu xóm dưới bị chồng đánh nhừ tử hết trận này đến trận khác, ngày nào cũng than trời trách đất “muốn chết” lắm nhưng vẫn cứ phải sống, vẫn cứ phải bị chồng đánh mỗi ngày. Người ở đất nông trường kết luận vầy: sống là phải thực tế - nghĩa là số mình nó sao thì mình sống là vậy.

Ngày má ra đi hoa cà phê nở trắng cả nông trường. Nắng chiều tháng 3 vàng chọe chảy dài trên những đôi má chèm nhẹp nước. Cha ngồi trước với chú Chinh lái xe máy cày. Chị Thương 16, Anh Hoài 14, tôi - bé Nhớ chưa kịp lên 7, ngồi bên quan tài của má trên chiếc rơ-moóc chuyên chở phân bón cho cà phê - xe đi qua ngã tư nông trường, rẽ về hướng tây, nơi nghĩa địa nông trường được quy hoạch nằm sâu dưới chân núi. Nắng vàng đã nhạt từ lâu.

Rồi chuyện má ra đi cũng không còn là câu chuyện đầu làng cuối xóm của người nông trường nữa, ai cũng đầu tắt mặt tối còn thời gian đâu mà nhớ đến chuyện của “người ta”. Chuyện đã trở thành quá khứ. Rồi cha cũng cưới một người vợ mới. Vợ mới của cha là cô giáo Cầm dạy toán của trường. Ngày cha đón cô giáo Cầm về nhà, anh Hoài kéo sập giàn bầu trước sân, bỏ nhà đi mất hai ngày mới về. Sau ngày đó, ông nội lên đưa anh về dưới đồng. Chị Thương cưới vội thầy giáo bên trường vừa học vừa làm mà chị đang theo học, rồi dắt díu  nhau rời khỏi nông trường. Ở với nội hơn năm, anh Hoài cũng bỏ nhà đi, biệt xứ.

*

Đó là chuyện của những ngày 20 năm trước, khi tôi - bé Nhớ còn chưa tới 7 tuổi. Hai mươi năm đủ cho một đứa trẻ trở thành người lớn. Nhưng với một người lớn từng là đứa trẻ bị bỏ rơi liệu có thật sự trưởng thành? Hay dù không nhìn nhận thì dấu ấn ngày xưa vẫn còn đó, len lỏi trong mỗi ngóc ngách của tâm can; đọng lại như cái mọng nước nằm dưới da, quên thì thôi, nhớ đến lại ngứa cồn cào, rồi gãi cho trầy da rỉ máu.

Tôi ghét sự thay đổi nhưng mãi vẫn không ổn định; ghét thơ ca, sợ ánh trăng nhưng lại học ngành ngữ văn như là định mệnh. Công việc thay đổi xoành xoạch bởi thấy cái gì cũng đáng ngờ. Yêu ai cũng sợ người ta thay lòng nhưng chính mình lại nói lời chia tay trước. Cứ vậy đó. Thời gian trôi qua, rồi tôi 27 tuổi. Vài mối tình trôi qua không chút gì đọng lại, có lẽ bởi sợ yêu ai đó quá nhiều rồi nhiễu sự, đa đoan.

Tôi quen anh - Hiện Tại khi còn học chung trường đại học, là lớp đàn anh khoa Báo chí. Anh hơn tôi hai tuổi mà như lớn hơn quá chục, nể nhưng không chơi. Con người anh cũng như cái tên, thấy cứ sao sao, kỳ cục. Gần 5 năm sau, chúng tôi gặp lại trong một buổi ghi hình chương trình từ thiện, rồi cứ tự nhiên vậy mà song hành. Khi bên anh rồi lại thấy anh chững chạc và có vẻ đáng tin - bởi có lẽ anh chưa bao giờ phán xét tôi hay bất kỳ hành động nào của tôi. Chỉ duy nhất một lần trong lúc nói chuyện với nhau, tôi nói với anh: “Em cho rằng thay đổi nghĩa là từ bỏ, rời bỏ cái gì đó”. Ánh mắt anh nhìn khiến tôi bối rối: “Từ bỏ đồng nghĩa với trốn chạy”. Tôi gay gắt: “Vậy theo anh thay đổi nghĩa là gì?”. Anh nhìn thật lâu vào tôi: “Muốn thay đổi trước tiên hãy đối diện, dám đối diện mới thật sự thay đổi”. Và vậy là tôi không còn liên lạc với anh nữa.

Chập chờn sau một đêm thức trắng để cắt cắt dán dán đoạn phim hiện trường, tôi giật mình bởi tiếng chuông réo rắt của chiếc điện thoại. Hy vọng là anh. Đầu bên kia, dì Cẩm thông báo ngắn gọn “Cha ốm nặng”. Mắt tôi giần giật, cảm giác như bị ai đó nhìn qua lớp màng bảo vệ mỏng tang, đâm xuyên thấu. Sau ngày má ra đi rồi anh và chị cũng không còn tin tức, tôi cũng chỉ mong đến mình. Ngày đậu đại học chính là cơ hội. Để rời bỏ vùng đất này hay thoát khỏi ám ảnh của chính mình?

Tôi rời đi vào mùa nông trường đang kỳ thu hoạch cà phê. Những cành trĩu quả, sắc đỏ pha lẫn xanh, mùi ngọt thanh dễ chịu. Cà phê được mùa, giá tốt. Sức sống mới về với nông trường, ai nấy vui mừng khấm khởi. Những ngày ăn củ sắn, cơm độn bắp độn khoai đã xa. Vùng đất đỏ quạch hoang sơ ngày nào giờ xanh bạt ngàn. Nông trường đã đổi khác. Và tôi cũng sẽ khác.

Ngày tôi đi, cha lặng lẽ tiễn tôi đến ngã tư nông trường. Khi chiếc xe đò dừng lại đón khách, cha vội nhét vào túi xách của tôi chiếc phong bì. Rồi những năm sau đó, cha vẫn đều đặn gửi cho tôi một số tiền gọi là phí sinh hoạt. Số tiền cha gửi cộng thêm tiền tôi làm các công việc khác nhau, từ dạy thêm, phụ quán đến dọn đất làm vườn  - tiện tặn, rồi 4 năm đại học cũng trôi qua. Tiết trời Đà Lạt giúp tôi tiết kiệm quần áo rất nhiều. Tôi vượt qua những năm dài đi học, một mình. Và không một lá thư nào gửi về cho cha. Ở nơi xứ lạ, lạnh và ẩm ướt, nỗi cô đơn xâm chiếm lấy tôi thường trực. Không bạn bè, không người thân, thèm yêu thương nhưng lại sợ gần gũi. Và cứ thế, thời gian tiếp tục trôi. Lận đận bao phen và giờ đây tôi thành khách trọ trên đất Sài Gòn.

*

Ngủ gà gật trên chuyến xe xuyên đêm từ Sài Gòn về tới Tuy Hòa, tôi bắt tiếp chuyến xe đò đi Sông Hinh - tuyến xe đi trên con đường số 5 ngày trước (bây giờ là tỉnh lộ 645). 8 giờ sáng, xe tới ngã tư nông trường. Khái niệm chung của những người dân ở đây, đến ngã tư nông trường nghĩa là đến nhà. Tôi đã về nơi tôi đã rời đi.

Chiếc ba lô nhẹ đeo trên lưng, tôi đi bộ trên con đường đất ngày nào giờ đã rải sỏi. Suốt con đường tôi chỉ gặp vài người chạy xe máy ù qua rồi mất hút. Đồng cà phê bạt ngàn ngày nào không còn. Mấy năm qua cà phê rớt giá cộng sâu bệnh hoành hành, nông trường cho chặt bỏ hết những cây xanh năm nào là nguồn sống của những công nhân nơi đây. Hun hút sâu hết tầm mắt là những bãi đất trống, hoang vu và bạc thết. Vài khoảnh đất nhỏ nhà ai bắp đã lên cao ngang đầu gối. Vắng lặng và lạnh lẽo.

Tôi không quẹo đường vào nhà mà đi thẳng về hướng hồ. Con đập khô nức nẻ. Ngày trước, để phục vụ cho tưới tiêu, mỗi đội sản xuất đều được khoét những hồ chứa nước mênh mông với con đập được xây cao cùng những đường ống dẫn nước thật lớn. Ngày còn nhỏ, khi còn má, chị em chúng tôi cùng lũ bạn thường kéo nhau ra đây chơi. Chúng tôi leo lên triền dốc trên cao, đứng lên những tảng đá phẳng nhìn xuống đập và hét lớn. Tiếng chúng tôi hòa với tiếng thác nước vang vọng lại từ bên kia núi.

Chị em tôi đến đây một lần sau ngày không còn má, đó là trước ngày chị Thương lấy chồng. Đứng trên bờ kè bê tông, phía dưới con đập nước trắng xóa, sùng sục, chị Thương ôm tôi và anh Hoài thật chặt. Chị nói đây là nơi má tụi mình ra đi. Tôi hỏi: “Có phải chị cũng bỏ tụi em mà đi luôn không?”. Chị không nói gì, ánh mắt chị nhìn đâu đó vào nơi xa tít tắp, ánh nhìn như má ngày nào.

Rồi cha cũng ra đi, lẳng lặng rời đi như cách của cha. Tôi đến bên giường, cha mở mắt nhìn tôi, ánh mắt lặng lẽ như ngày nào. Cha không có lời sau cùng, chỉ đưa tôi chiếc hộp gỗ - chiếc hộp của má. Đưa cha đến nghĩa trang, tôi đi bộ về nhà. Hiện Tại đang đứng bên đường ở ngã tư nông trường. Nhìn thấy anh, tự dưng nước mắt tôi trào ra, nóng hổi.  Anh ôm chặt tôi vào lòng, lần đầu tiên tôi nhận thấy tiếng thình thịch của trái tim mình.

Trong chiếc hộp của má, ngoài tập thơ má viết, thì tất cả là những tờ giấy lĩnh tiền mặt có ghi chú tên người gửi và những lá thư ngắn - tất cả đều của chị Thương và anh Hoài “Gửi cho bé Nhớ”. Dưới đáy hộp, một tờ giấy đã cũ được gấp đôi. Là nét chữ của má.

“Gửi các con của má. Lựa chọn cái chết là điều dễ dàng. Má xin lỗi đã không can đảm đối diện cuộc sống. Mong các con hãy làm điều đó thay má. Mãi yêu các con!”.

Má ơi! Tôi thầm gọi má, tiếng vang trong lồng ngực.

*

Chúng tôi nắm tay nhau đi trong nắng sớm. “Nông trường này đang cần một luồng gió mới” - Hiện Tại nói. Tôi ngước lên nhìn anh, những tia nắng lung linh. Cơn gió nồm mát dịu.

L.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Bến nguyện – Truyện ngắn của Ninh Giang Thu Cúc
Bước chậm chậm, Dã Quỳ để mặc cho làn mưa bụi hắt vào mặt những sợi nước li ti mát lạnh, gió xuân mơn man vuốt nhẹ từng lọn tóc thả hững hờ trên đôi vai tròn trịa, chiếc áo dài bằng lụa màu tím than ôm sít sao dáng vóc gợi cảm của người thiếu phụ.
Xem thêm
Quy cố hương - truyện ngắn Châu Đăng Khoa
Để anh nhớ xem. Mẹ vẫn gọi là loài trên cạn em à. Tín hiệu mẹ cài trong đầu mình đó, em tìm lại xem. Gọi gì cũng được, mình cứ gọi theo tổ tiên thôi.
Xem thêm
Người của buôn làng - truyện ngắn của Phạm Minh Mẫn
Rút từ tập truyện ngắn GIẢI NOBEL THỨ BẢY của tác giả.
Xem thêm
Cô bé có đôi bàn tay kỳ diệu
Nguồn: Mẹ - tập truyện ngắn của Lê Thanh Huệ, Nhà xuất bản Công an nhân dân, in năm 1997; trang 221.
Xem thêm
“Ông Ba Hay” – Truyện ngắn của Phan Đức Nam
“ÔngBa Hay” – Truyện ngắn của Phan Đức Nam
Xem thêm
Những trang sách cũ
Mẹ tôi kể là trong ngày sinh nhật đầu tiên, gia đình đã bày trước mắt tôi một cây bút, một quyển sách, một tờ giấy bạc, một chiếc hàn thử biểu và một cái muổng gỗ dùng để nấu ăn. Chọn thứ nào sẽ là dự báo tương lai cho cuộc đời tôi.
Xem thêm
Làng Nủ thân thương
Tác giả Bỉ Hao tên thật là Nguyễn Phúc Bảo Huy sinh năm 2007 (17 tuổi), tại Đăk Lăk. Hiện đang là học sinh Trường Trung học phổ thông Krông Bông. Em viết truyện ngắn, bút ký, tản văn và cả sáng tác thơ. Có thể nói các tác phẩm của em đang được ví như một viên ngọc nhỏ thô sơ còn cần thời gian gọt dũa, mài sáng, nhưng tôi tin rằng, trong thời gian tới, khi ở tuổi trưởng thành, em sẽ tiến bộ nhiều hơn nữa. Văn chương TP.HCM trân trọng giới thiệu tản văn Làng Nủ thân của Bỉ Hao đến với bạn đọc.
Xem thêm
Bạn cấp ba – Truyện ngắn của Nguyễn Văn Phúc
Phòng đã tắt hết đèn, ánh sáng từ điện thoại chiếu vào mặt tôi, hắt sáng tạo thành cái bóng hình đầu người in trên tường. Đây! “Carl Jung” của tôi đây rồi, tôi cười như một thằng dở người giữa buổi tối tĩnh mịch, hiu hiu gió và tiếng ve hở chút lại réo lên.
Xem thêm
Những ngày nông nỗi - Truyện ngắn Thúy Dung
Con tàu to lớn cập bến Sầm Sơn, (nay là cảng cá Lạch Hới, phường Quảng Tiến, thành phố Sầm Sơn tỉnh Thanh Hóa), bước chân lên đất liền, Hiệp quá mệt mõi vì hành trình hơn một tuần lễ trên biển. Mặc dù chiếc tàu của Ba Lan rất to lớn nhưng lần đầu tiên ra biển quả là chới với, chưa hết hồi hộp. Cái cảnh tàu chồng chành, khi nó nghiêng bên phải, cả bạn con gái lăn qua, khi nghiêng bên trái, bọn con trai bị lăn lại thì say sóng là điều không tránh khỏi. Thậm chí, có vài em nhỏ sức yếu, không sống nổi khi lên được bờ.
Xem thêm
Đường vòng - Truyện ngắn
Nguồn: Để sống bình yên – tác giả Lê Thanh Huệ, Nhà xuất bản Phụ nữ
Xem thêm
Nơi Bão Đi Qua - VOV
Truyện Bích Ngân
Xem thêm
Miền gió - Truyện ngắn của Viên Kiều Nga
Từ trong góc khuất, một tên khủng bố nhắm bắn Ngạn vì cho rằng cô là “con mồi” đơn độc, yếu ớt nhất và không có khả năng phản kháng. Hắn giương họng súng hướng về phía cô và bắt đầu lên đạn. Dường như có một dự cảm không lành, Hoàng đột nhiên lao tới. Anh đứng chắn ở phía trước và ôm chầm lấy Ngạn. Bất chợt có tiếng súng nổ ở cự ly rất gần. Mọi thứ diễn ra chỉ trong vài tích tắc.
Xem thêm
Con trâu - Truyện ngắn của Lê Thanh Huệ
Con trâu đủng đỉnh bước. Bình minh Đồng Tháp Mười mát lạnh. Hương tràm, hương thảo mộc hòa với gió quyện hơi nước sông Vàm Cỏ Tây mát lạnh. Con Khỏe vơ vội mấy nhánh cỏ ven đường đẫm sương đêm.
Xem thêm
Lứa đôi - Truyện ngắn Lê Thanh Huệ
Truyện ngắn của Lê Thanh Huệ
Xem thêm
“Bến nước” cơ quan | Truyện ngắn Lại Văn Long
Tôi đang đứng trước gương trong nhà tắm rộng rãi, ốp đá Italia cầu kỳ với la bô, bồn cầu, bồn tắm nhập từ Nhật Bản có bộ điều khiển điện tử và máy nghe nhạc cực chuẩn, để tự vấn.
Xem thêm