TIN TỨC

Chữ của Dạ Ngân | Lê Hoài Lương

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-30 09:22:49
mail facebook google pos stwis
2316 lượt xem

LÊ HOÀI LƯƠNG

“Bao giờ ti vi cũng cho thấy một hình ảnh biển người. Không gì khác hơn. Muốn xem nhiều hơn cũng không có, muốn nhìn sâu hơn cũng không thể. Và chính vì vậy mà họ không giống ai trên thế giới này. Thật là một đất nước bí ẩn. Bí ẩn hay cá biệt hay dị biệt, hay dị dạng? Hoặc là một biển phụ nữ áo hồng váy xòe vẫy hoa hát múa. Hoặc là một biển trai lính sống áo màu cỏ rầm rập rầm rập ghê răng. Như cố ý, như mô hình, như rô bốt. Xếp đặt quá thành khó tin, trình diễn quá thành khả nghi và đồng phục quá thành phi nhân là cái chắc”. (Đi hàng một). Với lượng chữ không nhiều ấy, người đọc hầu như đã có hình dung căn bản nhất về một đất nước, một mô hình xã hội. Và nhất là, cộng đồng ấy có thực sự được xây dựng vì lợi ích của con người như nỗ lực của hầu khắp trên thế giới hay không. Sao một đoạn văn ngắn lại có thể chuyển tải được nhiều thông tin và nhận thức, cảm xúc vậy? Nó tuyệt nhiên không có bất kỳ từ ngữ nào khó hiểu, từ ngữ phô diễn “trí tuệ”, “cao siêu” nào. Nó bình thường như ngôn ngữ thường nhật. Nhưng chân xác, vừa đủ, điều muốn mô tả. Và tỏa ra ánh sáng của trí tuệ.

Đó là chữ của nhà văn Dạ Ngân, một đoạn trong hàng trăm tạp bút của bà. Cũng văn phong ấy, chữ nghĩa ấy.

Hoặc đây là đoạn văn trong Con chó và vụ ly hôn, một truyện ngắn khá “đình đám” của bà, thời đầu cầm bút: “Chị còn yêu anh không? Chắc là còn. Trước đó, hồi mới cưới nhau, chị đã yêu anh, tình yêu rạo rực của lứa tuổi thấy cái gì cũng đẹp, lứa tuổi dễ vừa ý với mình và với chung quanh. Anh và chị đều mê mẩn khám phá nhau. Vài năm sau, chị có thất vọng đôi chút nhưng vẫn yêu anh, tình yêu tự nhiên của người phụ nữ đối với người đàn ông làm chủ thân thể mình, tình yêu bổn phận đối với người tạo ra đứa con mình, tình yêu ấm áp và bao dung đối với những cái tốt và cái xấu mơ hồ trong anh. Và yêu những kỷ niệm”. Các cung bậc thay đổi của “yêu” được diễn tả thật dung dị, đầy thuyết phục. Hoặc một truyện ngắn khác gần đây, khi bà đã rất danh tiếng, Ai người Hà Nội, cũng chuyện tình cảm nhưng không phải suy gẫm về nó, mà là những tinh tế trong đối thoại, va chạm, tâm lý, tâm trạng: “Tuần trăng mật năm sáu mươi sáu ấy, lần đầu tiên “theo anh ta thì về” ấy, khi hai người nhảy xuống từ một chiếc xe đạp ông mượn ở ga Vinh và đối mặt chiếc cầu treo, cô vợ thất sắc, không ngờ, thấy như bị chơi khăm./ –Anh dân miền núi, ư?/ Người chồng cười ngất, sảng khoái, tự đắc:/ - Miền núi thì sao nào?/ Cô vợ, nghe như mình vừa vấp một hạt sạn, hạt sạn đầu tiên trong cuộc hôn nhân của mình”. Rồi đoạn sau, tiếp diễn: “Gì cũng nhất, mở miệng ra là con cá lá rau tình người đều nhất nhưng người đỗ đạt thì không chịu quay về. Mỗi khi bà nói toạc ra với ông ý nghĩ ấy, ông thường cau mày không chấp và quay sang mô tả gió Lào để bà tự hiểu. Đây rồi những khóm tre bảo vệ của từng nhà, thứ tre mà ông bảo đã cứa vào nhau trong gió ngày hè và tự phát hỏa. Thảo nào! Thảo nào cái gì? Ông lừ khừ đay lại. Bà ý tứ làm thinh, nếu bà nói thêm về cái tính hay phát hỏa thì giữa hai người có âm thanh súng ống chứ không chỉ là sự va chạm của những hạt sạn”.

Tính cách nhân vật, cụ thể, rặt kiểu “đồ Nghệ” giỏi dang, khó tính; sự ấm ức và thấu hiểu, dung hòa của người vợ, đã hiện lên sinh động, thú vị trong đoạn văn phối hợp nhiều tạng kỹ thuật của truyện ngắn. Nó bật ra cuốn hút, giản dị, tài tình, bằng thứ ngôn ngữ có sẵn, chỉ việc xếp vào đúng chỗ.

Hãy khoan nói chuyện tư tưởng: sử dụng chữ chân xác, đắc địa, là một biểu hiện rõ rệt của tài năng văn chương. Còn “đẻ” chữ mới cho một tiếng nói, chữ viết, như kiểu đúc kết sự nghiệp sáng tác vĩ đại của Pushkin nâng tầm đáng kể kho từ vựng tiếng Nga chẳng hạn, thì hoặc là thiên tài hiếm hoi, hoặc còn nhiều hệ thuộc vào sự phát triển của ngôn ngữ ấy, thời điểm ấy. Nhưng đó là chuyện khác.

Tôi muốn nói đến những cây bút sính chữ, nhiều khi thiên về lớp vỏ ngôn ngữ, khoái trá tìm thấy chữ độc, lạ như chơi chữ, trình diễn chữ. Có tài thì thành phong cách, một thời tán tụng kiểu Nguyễn Tuân; làng nhàng thành ra điệu đàng, múa chữ, như khoe mẽ, nhưng che giấu sự cạn cợt ý tưởng.

Cổ nhân có câu “công dục thiệt kỳ sự tất tiên lợi kỳ khí”- người thợ muốn làm ra sản phẩm tốt phải có đồ nghề tinh xảo. Công cụ của nhà văn là chữ, tất nhiên bạn có thể coi ý tưởng cũng là công cụ, nhưng chữ là phương tiện chuyển tải. Nhiều người viết “không tới” thường bị nhận xét “thiếu chữ”, “không có chữ”. Bởi cứ theo lối mòn thiên thu, những “dòng sông đỏ nặng phù sa”, những “hoang hoải”, những “nhân văn”…, quả đáng chán. Làm gì có chữ sang, chữ hèn; chỉ có ngôn ngữ học thuật, hàn lâm, ngôn ngữ đời sống, dân dã, bụi đời, phương ngữ…; xài đúng chỗ là hay, ngược lại là kém, là lạm chữ. Đôi khi chữ bị ghét, bị kỳ thị một cách oan uổng, thậm chí nhiều người né tránh không sử dụng, tìm từ khác như gần đây cư dân mạng chế giễu “hoang hoải” chẳng hạn…

Thực ra về căn bản, chữ là trí khôn muôn đời, là kho tàng sẵn có, vốn thường vượt tầm chữ một nhà văn. Vấn đề là biết sử dụng thế nào cho theo kịp thực tế cuộc sống. Tôi hình dung cách dùng chữ của nhà văn Dạ Ngân như nhặt những vỏ ốc các loại trong rổ ốc quen thuộc; bà chỉ việc nhặt ra, đúng loại mình cần về hình dáng, màu sắc, và sắp xếp thành hình khối, thành bức tranh cuộc sống hay thân phận con người. Không cần đi tìm ốc lạ, ốc hiếm, ốc hóa thạch đâu đó... Quen về chất liệu, nhưng khác biệt một sản phẩm.

2.

Đề tài phụ nữ đeo đẳng trong những sáng tác của Dạ Ngân: những người phụ nữ, người mẹ, người vợ, con gái,… trong truyện ngắn, tiểu thuyết, tạp văn; thời chiến tranh, thời hậu chiến, thời điểm khó nghèo bao cấp, hay xu thế hiện đại. Như chắt lòng mà viết. Trong mắt con gái, bà mẹ mọi thời không bao giờ là trẻ và lạc hậu; trong xu thế cứ tiến về phía trước, “Ai chạy thì chạy, chỉ có các bà mẹ thì chậm rãi theo sau con mình, không ai có thể ngang bằng được với chúng. Vì đó là quy luật”. Nếu vậy, cũng là chung chung, có thể ở bất kỳ trang viết nào. Nhưng Dạ Ngân tiếp tục phát triển, người mẹ luôn tự ý thức và gắng gỏi không ngừng, một lòng mẹ bao dung, một bền bỉ phi thường, in dấu sâu đậm vào tâm trí người đọc như cách diễn đạt này: “Chính vì vậy mà không ít lần đứa con lớn tiếng với má việc này việc kia mỗi khi đụng chạm đến những thứ thuộc về kỹ năng của cuộc sống đã khác xưa nhiều. Má không chấp, má không để bụng, má thấu hiểu hơn ta tưởng bởi vì má vẫn âm thầm cố gắng để tiếp cận và thích nghi với cái bậc thềm mà đám con đang khiến má phải ngước nhìn”. (Ngâu và mẹ). Nhà văn nữ nào cũng là đứa con, rồi làm mẹ. Đoạn văn cho thấy bà đã nhập cả hai vai, là con, là má. Chữ là sự thấu hiểu, là tấm lòng. Hãy đọc lại câu sau của đoạn văn sẽ thấy nó thật lung linh, bởi được viết bằng thứ ngôn ngữ giản dị nhất mà mẫn tiệp nhất!

Phải rồi. Chính ánh sáng trí tuệ, độ sắc sảo trong mỗi nhìn nhận, suy gẫm vấn đề khiến những con chữ bình thường đã gánh vác sức nặng nhiều hơn ngữ nghĩa chính nó. Khả năng của chữ thật kỳ diệu.

Một ví dụ khác. Khi khó xử trước việc mình sắp đi dự lễ tang một nhà văn đáng kính, gặp chuyện bị níu chân: chủ căn hộ tầng dưới nhờ ở nhà để thợ “quá bộ” vô sửa cái mái ban công, ngày mai chính rằm “tụi cháu còn cúng bái ông bà tổ tiên với cô hồn phù hộ cho nữa” - cái lý do rất chính đáng. Nói việc mình phải có mặt ở đó giờ đó, và có biết nhà văn Sơn Nam không, cô gái lắc đầu, rồi chống chế, “có nghe loáng thoáng”, bà hạ bút: “Một người gần gũi với cư dân Sài Gòn như Sơn Nam mà không thật được nhiều người biết đến sao? Người bình dân họ bận bịu hay vốn dĩ bạc bẽo?” (Khoảng trống kỳ nhân). Cũng tạp bút này nhắc tới trường hợp khác, về mấy bà giới bình dân một chung cư ngoài Hà Nội: “Mấy chục năm đi về với nhau một cầu thang mà họ thực sự không biết người đàn ông lầm lũi cô độc kia là giáo sư triết học Trần Đức Thảo. Cho đến hôm nhà đài ầm ĩ báo tang ông. Các bà hàng xóm ấy hồn nhiên: “Người ta cũng Đức Thảo mà vang danh thế còn ông Đức Thảo chung cư nhà mình thì cứ như một lão dở hơi kiết xác!” Sự việc ở hai thành phố lớn nhất nước là vậy, và cảm giác những con đường “côi vắng” khi không còn họ đi về; cái “khoảng trống” không sao bù đắp nổi khi thiếu bóng những kỳ nhân… Bà đã viết những dòng thấm thía, sâu hút: “Có những người thực sự vang danh nhưng họ không thể là kỳ nhân. Chừng như sự cô độc thường trực gần với lập dị của nghệ sĩ mới làm ra một kỳ nhân. Cô độc mà vẫn nghe thấy chúng sinh, điều đó mới khó, mới thật phi thường. Như Solzennhitxyn luôn cô độc trên đất Mỹ. Như Trịnh Công Sơn cô độc với mọi thứ thuộc về đời thường. Như Bùi Giáng cô độc với cái xác phàm của mình. Như Trang Thế Hy sớm an lòng với vườn dừa để khỏi xà xận chốn trường văn trận bút. Và như Sơn Nam. Bởi vì bản thân sự cô độc của họ đã là tuyên ngôn, là nhân cách”.

Khó thể viết hay hơn. Vì mỗi bề ngoài chữ nghĩa bình thường nhất ấy như đã được tinh luyện như luyện đan. À không, không phải viên kim đan lấp lánh sắc vàng, là tim là óc chưng cất, từng giọt, đặc sánh. Sức lay động ngôn từ thật kinh sợ!

3.

Người đọc nhanh chóng bị chữ nghĩa gây cảm giác, nhưng điều đọng lại luôn phía sau chữ: vùng không gian âm hưởng, cái xôn xao dư ba thường hình thành muộn hơn: nó là ý, nối dài. Khi mải mê tìm kiếm vẻ ngoài có vẻ đỏm dáng, chải chuốt của chữ, chữ cũng có hiệu ứng về hùa với nhau, nối tiếp sánh vai, cái sâu xa muốn đạt tới thường đứng nánh sang một bên hoặc biến mất. Người ta nói tới văn chương tối giản, không chỉ kiệm lời mà còn là bình thường lời, sao cho điều kỳ vĩ nhất, sâu sắc nhất được diễn tả dung dị nhất, dễ hiểu nhất. Những nhà văn lớn của thế giới đều viết như vậy. Những nhà văn thành công trong nước đều đi qua tâm lý muốn thể hiện chữ nghĩa thời đầu cầm bút của mình.

Chuyện đề tài, tư tưởng trong văn xuôi, tức cái vấn đề hướng tới ấy, cũng là loay hoay tìm kiếm của nhiều người. Qua rồi cái tốt cái xấu đơn giản thời địch ta, chính diện phản diện phân minh, văn chương đi sâu vào khám phá con người đa diện, đa nhân cách, vào những va đập sáng tối; vào các vấn đề có tính triết luận, về ý thức hệ, về bản ngã; vào văn hóa, bản sắc… Riêng đề tài chiến tranh và hậu chiến còn được khai thác nhiều, đương nhiên cũng ở góc nhìn “có độ lùi” về thời gian. Tâm thế thời đại cũng thay đổi, với tất cả.

Có thể thấy, Dạ Ngân trước sau viết về những điều bình thường của đời sống quanh mình, về chính mình- người phụ nữ bị cuốn vào cuộc chiến rồi hậu chiến; về thế hệ mình; về tình yêu, gia đình, những nỗi niềm, trắc ẩn trong cuộc sống; về thiên chức làm mẹ, làm vợ… Nói chung, những va đập trực tiếp vào “cái tôi” bị cuốn vào dòng chảy thời đại, bị động và chủ ý mỗi quan sát, tư duy, với sự am tường nhất. Bà tìm thấy cái bình thường cao sâu ngay chính từ những quan sát, những trải nghiệm sống của mình.

Cái hấp dẫn của văn Dạ Ngân không phải từ “vấn đề” nó nói, mà từ cách nói. Nên các trang viết của bà có thể đọc đi đọc lại nhiều lần vẫn cuốn hút, vẫn xúc động. Chữ đã làm nên điều ấy.

Như chuyện một trung đội trưởng già dặn trận mạc được cấp vũ khí chống tăng mới là quả pháo dù, quá thích, có thể chơi giáp lá cà với bọn tăng kiêu ngạo, đã cùng mấy chiến sĩ trẻ khác tò mò “khám phá”, nó phát nổ. Tai nạn thế này không ít trong chiến tranh. Có gì đáng nói đâu giữa cuộc chiến tàn khốc những máu xương? Nhưng tiếng nổ ấy với Dạ Ngân là đáng nói, có cách nói để thành truyện ngắn Một lát cắt. Cái chết chưng hửng, cái tổn thất vô lý. Lại trong bối cảnh yên bình hiếm hoi, có thời gian để loay hoay “thán phục” người nghĩ ra loại vũ khí này, và… Hãy đọc hai mảng đối lập: “Sáng sớm hôm ấy không có máy bay trinh sát, không có bom bừa cũng không có trực thăng đổ quân. Nghe thấy tiếng không gian giãn ra thư thái. Nghe thấy tiếng cỏ reo trên cánh đồng để hoang, nghe thấy tiếng những con cá sống sót đớp mồi trong mương liếp, nghe thấy tiếng con sông thong thả rì rầm”. Và: “Một tiếng nổ. Giữa trời quang mây tạnh đã vang lên một tiếng nổ kinh hoàng. Những tiếng nổ từ người mình gây ra bao giờ cũng mồ côi, đanh và gọn như vậy. Nó báo hiệu những tổn thất thê thảm. Những chàng trai khát khao khám phá đã tan tành”. Các thứ “tiếng” của khoảng lặng trong chiến tranh và tiếng nổ “mồ côi, đanh và gọn” từ người mình gây ra, là cái hoàn chỉnh lưu dấu của chữ. Chứ không gì khác. Đôi khi một chi tiết ngang tầm một hình tượng. Và thường khi chữ quyết định giá trị chi tiết ấy!

Và đây, cảnh những người vợ lính Miền Tây, tất tả kiếm ăn, hướng về những chuyến thăm chồng nơi mặt trận: “Sáng sớm thức dậy dội phân heo xuống sông, nước đó múc lên, giặt giũ và lắng phèn nấu ăn. Không kịp chờ xem cứt người và cứt heo trên dòng chảy ấy có trôi xa chưa, ai cũng quáng quàng cơm nước để còn phóng xuống vỏ lãi về với ruộng vườn trồng tỉa thu hoạch. Chân đi như chạy, tay làm như máy, miệng nhai, để có cái vào bụng nhưng bụng thì luôn nhớ đến người đang ở rất xa”. (Vợ lính). Nhanh, gãy gọn, những câu văn có độ dồn nén đáng ngạc nhiên để theo kịp thực tế khắc nghiệt. Và bật ra tâm trạng.

Còn khi cần, nó hòa trộn các biểu hiện xốc nổi, cấn cá, và mềm mại cả quyết… Có thể nói bất kỳ trang văn nào của Dạ Ngân cũng luôn hướng tới sự thấu đáo mỗi trạng thái, tình huống, mô tả, và nhiều suy gợi. Là bởi, với bà dường như chữ như một sinh thể có đời sống của nó: nhà văn cư xử với chữ bằng sự cẩn trọng, nâng niu. Không thừa thãi, phí phạm. Nó chân xác và tinh anh nhất có thể. Nhưng thật gần gũi, thành thật với cảm xúc và không xa lạ với người đọc.

4.

Dạ Ngân có dụng công không? Có, đương nhiên. Dụng công lớn nhất là xóa dấu vết dụng công, trong bày tỏ ý mình và chữ. Cái tinh tế của Dạ Ngân trong sắc sảo, và dữ dội. Quyết liệt mà nhân tình, chính trực. Dấu ấn của gái thời loạn chăng: mười bốn tuổi đã ngấm đủ những ly tan, lăn lộn cùng chiến cuộc? Hay tính cách người Miền Tây ngay thật, hòa ái, trượng nghĩa?

Có lẽ bà gần gũi và yêu tự nhiên, được nuôi dưỡng trong bầu dưỡng khí miệt vườn từ nhỏ: sắc mạ đẹp mê tơi, những cây ổi trong vườn hương hỏa, mênh mang sông nước, những khóm lục bình, những chiếc vỏ lãi, bao nhiêu con vật thân thiết: chó, mèo, le le, rồi bầy trâu rừng, đàn sư tử, con linh cẩu trên ti vi, cả con cóc xấu xí… Và cái nôi miệt vườn ấy được ông nội - một lưu dân gốc gác từ Bình Định - dắt dìu, ngấm đẫm sự hàm ơn đất mới: “Ông nhắc nhở: phù sa kia mới đáng ham thích, phù sa là kho báu, phù sa là ngọn nguồn, con người chỉ có thể đắp đập, đặt bộng, lên liếp, be bờ chứ không tự làm ra được phù sa, vì vậy mà con người cần phải tri ân trời đất chứ đừng có hờn trách, lại càng không được kêu ca, oán thán”. (Nước chum). Hay cúi xuống, để tri nhận sâu xa từ một sinh linh lành hiền như con cóc: “Lắm lúc ngồi viết bỗng thấy có một chiếc lưỡi nhỏ đang dọn muỗi dưới chân mình, êm ái, dễ chịu một cách kỳ lạ. Đưa tay đỡ cóc lên, nhìn vào đôi mắt hiền từ của nó, chợt hiểu vì sao ông trời còn phải sợ. Vì nó quá hiền, chưa thấy cóc hại ai, trừ lũ muỗi. Hiền như cóc mà phải nổi giận tức là ông trời cũng nhiều lúc tác oai tác quái lắm”. (Con cóc ở hốc nhà).

Đọc Dạ Ngân để tin yêu điều thiện, cái đẹp, cái cao cả: “Đã từng biết trên mây xốp là trời xanh thông thống, mọi ý niệm về trời về Thượng đế đều dễ lung lay, thậm chí ngoái nhìn từ ngoài bầu khí quyển thì quả đất quá mong manh. Thế nhưng mây trắng ở Chùa Đồng lại khiến ta tin trời cao đất dày và có sự gột rửa”. (Chỗ tin yêu). Và đau đớn, phẫn nộ, khi con người cư xử với đồng loại, với thiên nhiên tệ mạt: “Đó là màu xanh của xã hội ăn chơi, mươi héc-ta đất chỉ để phục vụ một nhúm người, hạ dân không được bén mảng đến. Không hiểu vì sao đất của mạ lại dễ dàng biến thành đất của cỏ golf, dễ dàng đến mức ai cũng nghi ngờ sao người ta vẫn cần gạo và cơm mà lại nhục mạ đất đai như vậy?” (Nhớ mạ). v.v…

Tôi không có ý lý giải căn nguyên nào hình thành nét riêng biệt chữ nghĩa của nhà văn - việc bất khả và vô ích - nhưng tin rằng người nào yêu thiên nhiên bằng máu thịt và sự thấu hiểu, một tình yêu bất vụ lợi, hẳn đủ điềm tĩnh để tìm thấy những dung hòa tự nhiên nhất trong ứng xử. Kể cả với chữ. Thiên nhiên khác biệt nhưng theo quy luật, không cường điệu, không làm dáng. Chữ cũng vậy, tự tại và không khoe khoang.

Có nhà văn làm ta nể nang về độ uyên bác. Có nhà văn khiến ta kính trọng về nhân cách, về độ dũng. Có nhà văn khiến ta choáng ngợp vì quá gần với Thượng đế những sự thấu suốt lớn lao… Có nhà văn gợi trong ta lòng yêu mến. Chữ quyết định niềm yêu.

Tôi nghĩ, trang văn Dạ Ngân - dù viết thể loại nào, đề tài nào - đã chinh phục nhiều tạng độc giả, trước hết từ những con chữ điềm đạm ấm sáng và minh tuệ của bà.

Nguồn Văn nghệ số 40/2021

Bài viết liên quan

Xem thêm
Phê bình như là tự truyện – Tiểu luận của Hoàng Đăng Khoa
Tín niệm phê bình văn học cũng là một dạng tự truyện rất gần với tinh thần của các phương pháp phê bình hiện đại như phê bình hiện tượng học, diễn ngôn học văn chương, hay mĩ học tiếp nhận – nơi chủ thể đọc/viết luôn hiện diện trong chính thao tác diễn giải văn bản. Dù vô tình hay hữu ý, mỗi bài phê bình đều là một “tấm gương một chiều” phản chiếu cái tôi nội cảm, cái chủ kiến, thiên kiến của người viết. Qua văn bản phê bình, người ta không chỉ thấy một hiện tượng văn học được phê bình, mà còn thấy cả một con người – đang thực hành sống, đọc, suy tư, tìm gặp tha nhân và bản thể.
Xem thêm
Đọc thơ của một luật sư
Tôi đã được đọc tập thơ đầu tay của Thái Hưng với cái tên rất thơ: ĐI QUA MÙA THU - Nxb Hội Nhà văn 2024; Rồi một số bài in chung trong tập: Bằng lăng tím lối Mễ Trì cùng với nhiều tác giả khác, lại đôi khi thấy thơ anh trên báo, chí, đậm nhất là tờ Thời báo Văn học nghệ thuật giới thiệu chân dung tác giả. Đọc qua, chợt có cảm nhận nhẹ nhàng, song ngẫm ngợi, thấy chất nhân tình thấm đẫm, cuốn hút. Chắc chắn phải là giọng của người đã từng đi qua nhiều mùa thu xao xác lá...
Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm