TIN TỨC

Đỗ Thành Đồng – Câu thơ băng bó mặt trời

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
442 lượt xem

 NGÔ ĐỨC HÀNH

Nhà thơ Đỗ Thành Đồng là Hội viên Hội Nhà văn Việt Nam và Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Quảng Bình. Ông đã xuất bản sáu tập thơ, từ Cỏ vô danh (năm 2010) đến Lửa (năm 2021), đó là hành trình từ một Đỗ Thành Đồng – người của “niêm luật” đến “tự do”.

Đỗ Thành Đồng ăn to nói lớn, đậm chất miền Trung, thế nhưng trong chiều sâu của tâm hồn, ông cô đơn, thánh thiện. Đọc thơ ông, dễ nhận ra chân dung một nhà thơ trăn trở với Kiếp thơ, dằn vặt cùng con chữ. Người đọc, tùy tâm trạng để nhận diện, nhưng có điều dễ nhận ra, Lửa là cuộc đối thoại giữa ông và nhân vật “thơ”. “và nắng/ khét vòng ôm/ khét câu thơ/ còn lại những tờ bướm bay đầy con mắt” (Một ngày). Bài thơ này, rửa mặt Lửa, bởi ông xếp đầu tập thơ, thay tự vấn.

Nhà thơ Đỗ Thành Đồng

Từ Rác (năm 2012), Rỗng (năm 2014), Xác (năm 2017), Đá (năm 2019) đến Lửa (năm 2021), Đỗ Thành Đồng lần lượt bóc bản thể thế sự, phơi trên văn bản. Nhà lý luận phê bình văn học Hoàng Thụy Anh, từng nhận định thơ thế sự không hề dễ nếu thi sĩ non tay. Vấn đề thi sỹ xử lý và đẩy nó vào thơ bằng cách nào để bật lên đặc trưng riêng của mình mới quan trọng. Chênh một chút về tư liệu, sự kiện thì sa vào trần trụi, tê liệt mạch cảm xúc. Chênh một chút về bản năng – nguồn sống của tâm hồn dễ bề rơi vào trạng huống nghèo nàn tư tưởng, triết lý.

Thơ đối với Đỗ Thành Đồng, được giao cho một sứ mệnh. Cứ thế, ông gồng mình lên con chữ. “ai có thể thay đổi được tôi/ nỗi lòng nếp nhăn phố cổ/ trái tim tượng đá đền thờ/ câu thơ nhồi máu”. Câu thơ uất nghẹn, bất lực dẫn đến tăng xông. Trong một hoàn cảnh khác, thơ buộc phải chạy trốn: “sáng chải lại mái tóc/ câu thơ/ vào chùa” (Vào chùa).  Đỗ Thành Đồng buộc phải vân vi, cứu rỗi “nhặt thơ bỏ vào túi áo mà/ cười” (Có thể).

“câu thơ mấy lần củi mục

với anh giữa mùa nước mắt

lời hẹn bùn non đã không thành sự thật

bơ vơ tận đáy niềm tin”

(Ra đi)

Sống giữa trần ai, gia tài nhà thơ không có gì khác ngoài sự cô đơn. Đỗ Thành Đồng không ngoại lệ: “Anh chẳng có gì/ ngoài mấy câu thơ và ngôi nhà ảo”. Đọc bài thơ Bật khóc của Đỗ Thành Đồng, người yêu thơ liên tưởng ngay đến bài thơ Nói với con về tổ ấm của nhà thơ Đoàn Xuân Hòa: “Nhà của cha trên mây/ Cột kèo toàn câu chữ/ Gió dựng đêm mất ngủ/ Ký ức làm phên che”. Nhà thơ, không có gì ngoài tâm hồn, ngoài cô đơn, có lẽ được sở hữu thêm nỗi đau. Thật dễ sẻ chia tâm trạng với Đỗ Thành Đồng. Đọc thơ ông nhận ra, không chỉ là thơ mà còn cả người thơ bất lực.

đất nước đang kỳ lũ lụt

thơ nào hóa được thánh kinh

những bài thơ vô thần

không thể gõ chuông chùa tụng niệm

(Bật khóc)

Vì thế mà nhiều khi “bàn phím bật khóc”, “câu thơ lạy Chúa/ câu thơ Nam Mô”. Khi bất lực trước thiên nhiên, thấy mình nhỏ bé trước cuộc sống, nhận ra vô thường, con người thường tìm đến tôn giáo. Hay nói cách khác, đó là nguyên nhân tôn giáo ra đời và tồn tại. Thơ bất lực cũng phải tìm đến thánh thần, nương nhờ cứu rỗi.

đêm nay anh bất lực với thơ bất lực

với nỗi thật thà đáng ghét

anh miền Trung giấc mơ ngày bỏ dở

đêm thức trắng cùng mưa

(Thức)

Mỗi tác phẩm văn chương đều ra đời trong một hoàn cảnh cụ thể. Hai bài thơ Bật khóc và Thức đều được Đỗ Thành Đồng viết vào lúc 4h sáng hai ngày kế nhau. Trong tập Lửa bài Bật khóc xếp trước Thức, nhưng Thức viết trước Bật khóc một ngày. Thường một điều gì đó làm con người lắng lo, phiền muộn mới dẫn đến mất ngủ (thức), Và khi đau đáu về nó nhưng thấy mình nhỏ bé, bất lực mới bật khóc. Đó là quy luật diễn tiến của tâm lý người. Thưa, hai bài thơ viết vào trung tuần tháng 10/2020. Đó là thời điểm các tỉnh miền Trung như Hà Tĩnh, Quảng Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên Huế bị nhấn chìm trong mưa lũ. Sự cố bi thảm Rào Trăng 3 xảy ra vào thời điểm này. Đỗ Thành Đồng luôn luôn “thẩm vấn” thơ, “tra khảo” tâm hồn mình trước nỗi lầm than nhân thế.

Đỗ Thành Đồng là người như vậy. Tâm hồn ông đã chật căng xa xót, chỉ cần thêm hoàn cảnh, thơ trào lên miệng chữ. Trong Lửa ông còn viết đối thoại rất nhiều với thơ ở những ngữ cảm khác, có thể đó là lúc ông kêu lên (dù ẩn ý) phải trả lại sinh thái cho thơ, có thể là lúc ông nhận ra mình mới là đứa trẻ chưa đến tuổi dậy thì, trước một Nàng Thơ đang vào kỳ sung mãn của ham muốn, đến mức phải thừa nhận “trước thơ/ cả tôi và anh/ đứa trẻ” (Kiếp thơ).

Đỗ Thành Đồng có một “người tình” thực sự là thơ. Không biết vì nỗi gì, ông rất ít ngủ. Thời gian sáng tác các bài thơ trong tập nói lên điều đó, lúc 01h sáng, lúc 02h sáng….và 05h sáng. Có lúc ông than: “Trời không cho tôi ngủ/ để soi mình trước hoa” (Hình hài). Nhờ vậy, những lúc thanh sạch của tâm hồn, ông đều dành cho thơ.

“Thơ với anh có phải là cuộc dạo chơi?”, Đỗ Thành Đồng không ngần ngại trả lời: “Hoàn toàn không, đó là gan ruột”. Trong Đường chữ, NXB Hội Nhà văn, 2009, nhà thơ Lê Đạt kể rằng: Risos, nhà thơ lớn bị lưu đày trong nhiều năm trên đảo vắng có một ý kiến thật bất ngờ: “Tôi không nghiện rượu vì trước đó tôi đã nghiện chữ”. Đọc Lửa, thấy rõ Đỗ Thành Đồng là một kẻ nghiện thơ, đến mức thơ có lúc được ông giao cho một sứ mệnh thiêng liêng “câu thơ băng bó mặt trời” (Ghen 3).

Trong Lửa của Đỗ Thành Đồng có “con đường”: “Trên con đường cao tốc” (An toàn); có hình ảnh mặt trời: “mặt đất hóa mặt trời” (Mơ hồ); “và ta biết mặt trời đã thấy / những băng rôn khẩu hiệu” (Mặt trời); có hình ảnh “lửa”: “anh bắt đầu nhen lửa/ nấu cháo cho thơ” (Mơ hồ); “anh cứ tin thời gian là ngọn lửa / soi rõ mọi linh hồn” (Ra đi); “ở nơi ấy ai khời ngọn lửa / ấm ức tro tàn” (Vân anh)…

Đỗ Thành Đồng sở hữu tâm hồn đa cảm. Trong Lửa, không chỉ có 2 bài thơ Bật khóc, Khóc mà nước mắt nhà thơ còn rơi trên nhiều câu thơ khác. Có lúc, nước mắt không chảy ra ngoài mà chạy ngược vào trong; thậm chí nhà thơ thú nhận: “tôi không còn nhiều nước mắt” (Khóc).

Đau là vẻ đẹp của tâm hồn, đau là mỹ học của thi ca. Nhưng, Đỗ Thành Đồng Khác – như tên một bài thơ, như ông dùng nó đặt tên cho cả phần một trong Lửa. Nhân vật trữ tình của ông biết vượt lên và hy vọng: “trong bóng tối hôm nay / mặt trời hiện lên như ánh mắt / câu thơ ưỡn mình tắm nắng / đỏ rực nụ hôn” (Mặt đêm). Lửa giàu cảm xúc thế sự, dù có lúc rơi vào trạng thái Mông lung, Lãnh cảm, Nghẹn… đỉnh điểm là Khóc, nhưng Đỗ Thành Đồng luôn nhận ra Gió mới và Mặt trời. Đó là vẻ đẹp thuộc về thiên chức của thi ca, đánh thức nhân ái, làm trổ mầm cái đẹp, tìm ra Mặt thật giữa Mặt đêm, chan vào Ánh sáng.

Không chỉ với Lửa; các tập Xác, Rác, Rỗng, Đá đã xuất bản các năm 2017, 2018, 2019 của nhà thơ Đỗ Thành Đồng cơ bản đều là thân phận, thế sự. Nếu Cỏ vô danh chỉ chuyên chú vào thể thơ Đường luật, thì đến Rác, đó là sự lột xác hẳn về đề tài và chất liệu, kỹ thuật mẫu tự; đặt dấu ấn cho những triết lý, chiêm nghiệm đúc rút từ bản thể đời sống. Rỗng tiếp nối mạch nguồn của Rác nhưng cao trào hơn ở sắc màu tình yêu. Xác lại là điểm hội tụ, gặp gỡ giữa Rác và Rỗng: hiện thực được dựng lập như ma trận của một ván cờ chấp chới thực – ảo và những bài thơ tình lồng ghép ruột gan – trí tuệ. Đến Đá rồi Lửa từng bước tạo ra một diện mạo mới của một nhà thơ cách tân, hiện đại. Đó là “lịch trình sáng tác khá đều đặn” của nhà thơ Đỗ Thành Đồng.

Thơ Đỗ Thành Đồng đảm bảo được trật tự của cảm xúc. Sự tiết chế giữa bản năng tự nhiên và tư duy lí trí đã giúp Đỗ Thành Đồng “tiêu hóa” những gập ghềnh, chông gai mà không ít người làm thơ còn mắc phải. Do đó, hiện thực trong thơ anh vẫn đảm bảo được nguồn rung động tinh tế, sâu sắc và một tâm thế đầy bản lĩnh của nhà thơ. Nói cách khác, Đỗ Thành Đồng đã biết “để con chữ lên tiếng” (Lê Đạt).

Cuộc tình mênh mông nơi cõi ấy

Chỉ anh và chỉ riêng anh

Gót chân đầu thai vĩnh viễn

Cơn nghiện làm người

(Nghiện)

Đỗ Thành Đồng xác tín “cơn nghiện làm người”. Việc ông đốt lửa lên hy vọng làm ấm lại những run rẩy nhân thế, “hành hương trong bản ngã” (Hoàng Thụy Anh) cũng nhằm đi từ mình tới người, từ tất yếu đến tự do. Hành trình ấy luôn cần lửa. Tất nhiên, lửa ở đây không phải là văn minh mà con người đã tìm ra 500 ngàn năm trước Công nguyên mà là lửa trong trái tim người. Lửa này không thể mượn, vay.

N.Đ.H/VANVN

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người thầy xanh thẳm nỗi đời chất chứa yêu thương
Tôi đọc một mạch cuốn sách Người thầy (Nxb Quân đội nhân dân, 2023) của Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh xong mà cứ bâng khuâng mãi. Người thầy xanh thẳm nỗi đời chất chứa yêu thương
Xem thêm
Nguyễn Quốc Trung đã về miền mây trắng
Bài viết của nhà thơ Lê Thành Nghị
Xem thêm
Ký ức một thời trận mạc của chiến sĩ Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân
Đó là Đại tá Hoàng Long Xuyên, sinh năm 1918, nguyên Đội trưởng đội du kích Hòa An - Cao Bằng, nguyên Giám đốc Công an Khu tự trị Việt Bắc kiêm Chỉ huy trưởng Công an nhân dân vũ trang (nay là Bộ đội biên phòng - BĐBP) Khu tự trị Việt Bắc.
Xem thêm
Nhà văn Lương Sỹ Cầm: Như dòng sông lặng lẽ trôi
Nhà văn Lương Sỹ Cầm sinh ngày 15.01.1929 tại Hà Tĩnh, hiện là hội viên cao tuổi nhất của Hội Nhà văn Việt Nam vừa qua đời vào lúc 13h ngày 28.8.2023 tại Hà Nội hưởng thọ 96 tuổi. Theo nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: “Ông đã sống, đã sáng tạo gần một thế kỷ trên cõi đời này như không hề biết mệt mỏi. Mới cách đây 5 năm, khi ở tuổi 90, ông vẫn cho ra mắt tiểu thuyết Đèn kéo quân và được trao Giải thưởng Văn học Bộ Quốc phòng”. Tưởng nhớ nhà văn lão thành Lương Sỹ Cầm, Vanvn.vn trân trọng giới thiệu lại bài viết của nhà văn Nguyễn Thế Hùng về ông.
Xem thêm
Từ Kế Tường đánh thức thời hoa mộng
Từ Kế Tường, tên khai sinh là Võ Tấn Tước, quê gốc ở Bình Đại – Bến Tre, nhưng lên Sài Gòn học khá sớm. 19 tuổi tác giả đã là thư ký tòa soạn tờ Tuổi Ngọc, tờ báo dành cho thiếu nhi. Năm 1969, Huyền xưa, tiểu thuyết đầu tay của ông, được in nhiều kỳ trên báo, sau đó mới in sách, lần đầu khoảng 150.000 bản.
Xem thêm
Xuân Oanh - cánh chim Oanh của mùa Xuân Cách mạng! (Phần cuối)
Là một trong những hội viên thế hệ đầu tiên của Hội Nhạc sỹ Việt Nam,
Xem thêm
Phạm Vân Anh - Gót sen nở thắm biên thùy
Từng là sinh viên ngành “hot” (ngôn ngữ Anh) của trường “top” (Đại học Ngoại ngữ Hà Nội), ấy thế nhưng khi tốt nghiệp đại học, Phạm Vân Anh lại quay về quê hương Hải Phòng để làm việc tại Quỹ Bảo trợ Trẻ em thành phố và nhận dạy tình nguyện cho trẻ em lang thang cơ nhỡ tại các lớp học tình thương.
Xem thêm
Nhạc sĩ Xuân Oanh - nhà ngoại giao nhân dân trong kháng chiến chống Mỹ
Xuân Oanh (1923-2010) là tác giả của bài ca “Mười chín tháng Tám”
Xem thêm
Nhà thơ Vân Long và những người văn Thăng Long
Nhà thơ Vân Long làm việc ở báo Độc Lập, sau này anh về NXB Hội Nhà văn, phụ trách phần thơ.
Xem thêm
Xuân Oanh - cánh chim Oanh của mùa Xuân Cách mạng! (Phần 3)
Bạn bè, đồng nghiệp các thế hệ luôn dành cho Xuân Oanh danh xưng Nhà Ngoại giao Nhân dân
Xem thêm
Lê Minh Quốc - Trương Nam Hương, đôi bạn thơ và vùng hoài niệm
Bài viết của Ngô Đức Hành về đôi bạn Lê Minh Quốc - Trương Nam Hương
Xem thêm
Mối tình vì hòa bình
Nhạc sĩ Xuân Oanh (1923-2010) tên đầy đủ là Đỗ Xuân Oanh. Ông xuất thân trong một gia đình nghèo ở thị xã Quảng Yên, tỉnh Quảng Ninh. Ông từng làm việc cho báo Cứu quốc.
Xem thêm
Văn Cao: Từ “Buồn tàn thu” tới mùa thu Cách mạng
 Kỷ niệm 100 năm ngày sinh nhạc sĩ Văn Cao (1923-2023), một chương trình nghệ thuật đặc biệt Đàn chim Việt sẽ được tổ chức để tôn vinh tài năng của người nghệ sĩ lớn. Chương trình diễn ra lúc 20 giờ ngày 20.8 tại Nhà hát Lớn Hà Nội. Xin giới thiệu bài viết của nhạc sĩ Trần Lệ Chiến – Phó Tổng biên tập Tạp chí Âm nhạc – Hội nhạc sĩ Việt Nam về nhạc sĩ Văn Cao.
Xem thêm
Đỗ Xuân Oanh - một cuộc đời, một nhân cách
Phim tư liệu giới thiệu nhân kỷ niệm 78 năm Cách mạng Tháng Tám
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Bình Phương: Đa tầng hiện thực và cách tân tiểu thuyết
Lần gần nhất tôi gặp nhà văn Nguyễn Bình Phương – Tổng Biên tập Tạp chí Văn nghệ quân đội, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam khi anh tham gia cùng đoàn công tác của Trung ương tham dự hội nghị toàn quốc về công tác tuyên giáo tổ chức tại Quảng Nam ngày 4.7.
Xem thêm
Nhà văn, nhà viết kịch Minh Khoa với những “hào kiệt phương nam”
Nguồn: Tạp chí Văn nghệ TP.HCM số 85, ngày 3/8/2023
Xem thêm