TIN TỨC

Đọc bài thơ “Ánh mắt sông Tiền” của Xuân Trường

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-08-03 04:53:47
mail facebook google pos stwis
3795 lượt xem

NGUYỄN VŨ QUỲNH

Xuân Trường đã tạo nên nhan sắc của tác phẩm làm xao xuyến lòng người bởi  những đường cong đã chật chội tôi vào em đến no tròn đôi mắt”                                                          

Em nói câu gì mà con sông bối rối

Cứ ngọt phù sa vào mạn con thuyền

Em nhìn gì mà không gian cứ thẫn thờ mây trắng

Vội vã nhìn nhau chia nắng sông Tiền

Có phải con sông bối rối, hay vị khách lữ hành trên dòng sông Tiền ăm ắp phù sa châu thổ bối rối khi nghe tiếng em gái cất lên ngọt lịm trên khoảng không gian thơ mộng và đẹp đẽ, làm anh bối rối mà tạo dựng cho dòng sông bối rối. Vì chỉ có thơ mới làm cho con sông bối rối được nhưng bối rối bâng khuâng, bối rối hồi hộp thì nhà thơ chẳng bao giờ nhường nhịn cho dòng sông đâu mà truyền qua con tim yêu của mình. Các bạn đã thấy dòng sông bối rối chưa. Chắc chưa bao giờ. Hay chỉ thấy mình bối rối. Đi trên dòng sông, nhà thơ đã làm nên con sông bối rối thì đẹp đẽ mà lãng mạn, thay cho mình bối rối rất thi vị và tế nhị đấy chứ. Và: Em nhìn gì mà không gian cứ thẫn thờ mây trắng, để mà: Vội vã nhìn nhau chia nắng sông Tiền. Hay lắm. Lãng mạn chứ, bắt đầu từ lần gặp gỡ sông Tiền đầu tiên ấy, đến mây trắng cũng thẫn thờ thì tuyệt dịu, rồi cùng nhìn nhau chia nắng sông Tiền. Mở đầu cho bài thơ như vậy là đạt đỉnh, đó là sự đẹp đẽ của thơ bởi một hình tượng ẩn dụ rất hay. Và rồi Xuân Trường lại cho ta bất ngờ, sững sờ trước những thất lạc lạ lẫm từ phía áo bà ba thi vị:

Chợt thực hư trưa, vào tôi quá đỗi

Mơ hồ em, hay tôi thất lạc phía áo… bà ba

Những đường cong đã chật chội tôi vào em đến no tròn đôi mắt

Tôi nghe lòng mình sao lại cứ bôn ba

Chật mà kín nên đất trời bẻn lẽn

Hành hạ tôi hôm ấy quá... Vĩnh Long ơi

Nhà thơ đã dùng điệp từ chật chội, no tròn, bẻn lẽn, thất lạc, hành hạ tôi… trong những câu thơ đó là những điệp từ rất thật, song lại ảo vô cùng. Sao nhà thơ lại thèm cái sự chật chôi trong chiếc áo bà ba? Trong thơ mà sử dụng những điệp từ đời thường như vậy là làm khó cho mình, nếu như người làm thơ không sành điệu, cao tay tìm những bổ ngữ đi phía sau cho điệp từ ấy thì khô khan đơn điệu khó thành thơ. Nhưng trong bài thơ này, nhà thơ đã khéo léo dùng những từ ngữ phía áo bà ba: Chật chội tôi vào em đến no tròn đôi mắt ấy, tạo nên hương vị cho thơ, làm dáng cho thơ bởi cảm xúc tôi nghe lòng mình sao lại cứ bôn ba. Với những điệp từ ấy bỗng nhiên câu thơ trở nên thánh thiện, cất cánh bay lên tình tứ vì chật chội tôi vào trong em, đến nỗi thất lạc cả suy tư bởi từ phía áo… bà ba. Chật mà kín đến nỗi đất trời cũng bẻn lẽn, dẫn đến hành hạ tôi hôm ấy quá…. Vĩnh Long ơi. Từ chật chội sao mà đắt thế. Chắc ai đó cũng mong muốn được hành hạ, được chật chội như vậy lắm chứ. Chính cái nét duyên dáng con gái nhìn từ chiếc áo bà ba trên dòng sông thăm thẳm ấy của Đồng bằng sông Cửu Long xinh đẹp, hồn nhiên, tạo nên những chất thơ ngọt ngào, lãng mạn và câu thơ xao xuyến mà thơm thảo như vậy, v.v.

Nhìn áo vàng tôi mi mê về màu lãnh Tân Châu xa lắc

Chắc mai này dù ở đâu tôi cũng thấy bồng bềnh

Những giấc mơ cứ đầy lên sông nước Cửu Long

Em mơ gì mà mắt em mênh mông đến thế?

Chiếc áo bà ba sao mà đẹp đẽ quyến luyến, mà tha thướt làm cho bài thơ trở nên duyên dáng. Làm cho thi nhân nhớ ngay đến lãnh Tân Châu ở đầu nguồn sông Hậu. Lụa là chưa bằng lãnh đâu, vì lãnh tôn lên vẽ đẹp con gái bởi thứ thời trang đặc trưng Nam bộ này. Vẽ đẹp bừng lên từ ánh mắt mênh mông đến thế, dù ở đâu tôi cũng thấy bồng bềnh. Để rồi:

Tôi đuối rồi không bơi lội được nữa đâu

Thương quá lục bình với hơi thở nông sâu

Mỗi khi con sông nhăn mặt

Oằn lưng cho hạnh phúc con người

Xin em hãy cứu tôi đang mắc cạn trưa cù lao… em ạ

Khổ thơ này nhà thơ dùng một từ oằn, một từ đuối, một từ cạn như bình thường thì có khi chúng ta có thể nghỉ ngay đến đuối sức, đuối nước, đuối hơi v.v. Tại sao lại đuối? Song tất cả không phải vậy mà đó là đắm đuối, cuốn hút theo cái đẹp, mà đuối như vậy thì ai cũng muốn đuối và chỉ có thơ mới đuối như vậy được. Tiếp theo thi sĩ thả một câu đến xao lòng. Xin em hãy cứu tôi đang mắc cạn trưa cù lao em ạ. Mắc cạn mà mắc cạn trưa ở trên cù lao mới hay chứ. Nhà thơ quá khéo léo dùng phương pháp tu từ, tạo nên cái cớ, chỉ có thơ mới có được mắc cạn trưa ở cù lao em ạ. Buổi trưa trên cù lao dòng sông ấy, nhà thơ đang mắc cạn cái đẹp, có tuyệt dịu hay không? Có ai nỡ lòng nào từ chối mà không tình tứ một chút với thi nhân khi đang xôn xao bến nước. Và rồi khi đã được cứu vớt trong nhay nháy ấy, thi nhân lại toan tính gì nữa đây: Hãy nhón gót đỡ tôi lên để tận hưởng mùi hương cây trái/ Mai này xa, tôi còn lại hương em. Quả là tuyệt vời của khéo léo thơ. Từ ngữ khôn khéo đến tuyệt diệu, thi sĩ đã tạo ra cái cớ đuối sức, mắc cạn trưa, để thưởng thức mùi hương cây trái nhưng mục đích cuối cùng chỉ là Mai này xa tôi còn lại hương em như vậy người thơ được thưởng thức cả hai. Hương em sao mà quyến luyến thế, mai sau vẫn còn trong tâm tưởng sâu xa. Xin thưa các bạn, đó là nghệ thuật tình tứ trong thơ, nghệ thuật đi đến trác tuyệt trong câu chữ, tìm đến biểu cảm nhân cách của thơ, dẫn dắc người đọc bài thơ vào cõi thần tiên, bởi vì đó là trách nhiệm của thi nhân tạo nên nhan sắc của tác phẩm.

Rồi tôi sẽ là con thuyền mai mãi lênh đênh

Trong vô hạn con thuyền có bờ, có bến

Sông cứ chảy dài có khi nào tôi gặp lại thuyền em

Làm sao tôi biết được, khi tôi đi ngang, còn em thì đi dọc

Chỉ có sông mới biết tôi bao lần mệt nhọc     

Đem trái tim bỏ ngỏ để chờ ai

Qua sông Tiền hôm ấy dễ đâu phai.

Thưởng thức đến đoạn cuối của bài thơ, ta thấy rõ thi nhân đến với quê em hai mùa mưa nắng, anh như con thuyền lênh đênh mãi miết cuộc hành trình, rồi trở về với bờ bến nơi xa lắm. Song cái chất hào hoa lãng mạn của thi sĩ tạo nên những ao ước bao giờ gặp lại thuyền em trong khi anh đi ngang mà thuyền em thì đi dọc. Hôm nay anh trở về và đang đi trên dòng sông đa tình đó mà anh. Con người, dòng sông nơi đây, chiếc áo bà ba óng ánh lãnh Tân Châu. Con đò ngang, chiếc thuyền đi dọc, nơi cù lao mắc cạn, nơi chật chội tôi bởi những đường cong, bởi ánh mắt nụ cười duyên dáng vẫn tươi nguyên làm nên chất liệu bài thơ. Nơi mảnh đất chín rồng lần đầu về đây thi nhân đã bị hút hồn đến đắm đuối, trở dạ sinh ra thi phẩm “Ánh mắt sông Tiền”. Thi phẩm để lại tình cảm lưu luyến trong những kí tự văn học đẹp đẽ, lãng mạn, tạo nên bài thơ dễ thương hấp dẫn đến thế.

Cảm ơn thi sĩ  Xuân Trường người đã sinh ra đứa con thơ lãng mạn với những đường cong chật chội tôi vào em đến no tròn con mắt. Cùng lãnh Tân Châu, chiếc áo bà ba, con thuyền… trên dòng sông thơ của thi nhân khắc vào tâm trí của tôi.

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm