TIN TỨC

Đọc bài thơ “Ánh mắt sông Tiền” của Xuân Trường

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-08-03 04:59:09
mail facebook google pos stwis
1995 lượt xem

NGUYỄN VŨ QUỲNH

Xuân Trường đã tạo nên nhan sắc của tác phẩm làm xao xuyến lòng người bởi  những đường cong đã chật chội tôi vào em đến no tròn đôi mắt”                                                          

Em nói câu gì mà con sông bối rối

Cứ ngọt phù sa vào mạn con thuyền

Em nhìn gì mà không gian cứ thẫn thờ mây trắng

Vội vã nhìn nhau chia nắng sông Tiền

Có phải con sông bối rối, hay vị khách lữ hành trên dòng sông Tiền ăm ắp phù sa châu thổ bối rối khi nghe tiếng em gái cất lên ngọt lịm trên khoảng không gian thơ mộng và đẹp đẽ, làm anh bối rối mà tạo dựng cho dòng sông bối rối. Vì chỉ có thơ mới làm cho con sông bối rối được nhưng bối rối bâng khuâng, bối rối hồi hộp thì nhà thơ chẳng bao giờ nhường nhịn cho dòng sông đâu mà truyền qua con tim yêu của mình. Các bạn đã thấy dòng sông bối rối chưa. Chắc chưa bao giờ. Hay chỉ thấy mình bối rối. Đi trên dòng sông, nhà thơ đã làm nên con sông bối rối thì đẹp đẽ mà lãng mạn, thay cho mình bối rối rất thi vị và tế nhị đấy chứ. Và: Em nhìn gì mà không gian cứ thẫn thờ mây trắng, để mà: Vội vã nhìn nhau chia nắng sông Tiền. Hay lắm. Lãng mạn chứ, bắt đầu từ lần gặp gỡ sông Tiền đầu tiên ấy, đến mây trắng cũng thẫn thờ thì tuyệt dịu, rồi cùng nhìn nhau chia nắng sông Tiền. Mở đầu cho bài thơ như vậy là đạt đỉnh, đó là sự đẹp đẽ của thơ bởi một hình tượng ẩn dụ rất hay. Và rồi Xuân Trường lại cho ta bất ngờ, sững sờ trước những thất lạc lạ lẫm từ phía áo bà ba thi vị:

Chợt thực hư trưa, vào tôi quá đỗi

Mơ hồ em, hay tôi thất lạc phía áo… bà ba

Những đường cong đã chật chội tôi vào em đến no tròn đôi mắt

Tôi nghe lòng mình sao lại cứ bôn ba

Chật mà kín nên đất trời bẻn lẽn

Hành hạ tôi hôm ấy quá... Vĩnh Long ơi

Nhà thơ đã dùng điệp từ chật chội, no tròn, bẻn lẽn, thất lạc, hành hạ tôi… trong những câu thơ đó là những điệp từ rất thật, song lại ảo vô cùng. Sao nhà thơ lại thèm cái sự chật chôi trong chiếc áo bà ba? Trong thơ mà sử dụng những điệp từ đời thường như vậy là làm khó cho mình, nếu như người làm thơ không sành điệu, cao tay tìm những bổ ngữ đi phía sau cho điệp từ ấy thì khô khan đơn điệu khó thành thơ. Nhưng trong bài thơ này, nhà thơ đã khéo léo dùng những từ ngữ phía áo bà ba: Chật chội tôi vào em đến no tròn đôi mắt ấy, tạo nên hương vị cho thơ, làm dáng cho thơ bởi cảm xúc tôi nghe lòng mình sao lại cứ bôn ba. Với những điệp từ ấy bỗng nhiên câu thơ trở nên thánh thiện, cất cánh bay lên tình tứ vì chật chội tôi vào trong em, đến nỗi thất lạc cả suy tư bởi từ phía áo… bà ba. Chật mà kín đến nỗi đất trời cũng bẻn lẽn, dẫn đến hành hạ tôi hôm ấy quá…. Vĩnh Long ơi. Từ chật chội sao mà đắt thế. Chắc ai đó cũng mong muốn được hành hạ, được chật chội như vậy lắm chứ. Chính cái nét duyên dáng con gái nhìn từ chiếc áo bà ba trên dòng sông thăm thẳm ấy của Đồng bằng sông Cửu Long xinh đẹp, hồn nhiên, tạo nên những chất thơ ngọt ngào, lãng mạn và câu thơ xao xuyến mà thơm thảo như vậy, v.v.

Nhìn áo vàng tôi mi mê về màu lãnh Tân Châu xa lắc

Chắc mai này dù ở đâu tôi cũng thấy bồng bềnh

Những giấc mơ cứ đầy lên sông nước Cửu Long

Em mơ gì mà mắt em mênh mông đến thế?

Chiếc áo bà ba sao mà đẹp đẽ quyến luyến, mà tha thướt làm cho bài thơ trở nên duyên dáng. Làm cho thi nhân nhớ ngay đến lãnh Tân Châu ở đầu nguồn sông Hậu. Lụa là chưa bằng lãnh đâu, vì lãnh tôn lên vẽ đẹp con gái bởi thứ thời trang đặc trưng Nam bộ này. Vẽ đẹp bừng lên từ ánh mắt mênh mông đến thế, dù ở đâu tôi cũng thấy bồng bềnh. Để rồi:

Tôi đuối rồi không bơi lội được nữa đâu

Thương quá lục bình với hơi thở nông sâu

Mỗi khi con sông nhăn mặt

Oằn lưng cho hạnh phúc con người

Xin em hãy cứu tôi đang mắc cạn trưa cù lao… em ạ

Khổ thơ này nhà thơ dùng một từ oằn, một từ đuối, một từ cạn như bình thường thì có khi chúng ta có thể nghỉ ngay đến đuối sức, đuối nước, đuối hơi v.v. Tại sao lại đuối? Song tất cả không phải vậy mà đó là đắm đuối, cuốn hút theo cái đẹp, mà đuối như vậy thì ai cũng muốn đuối và chỉ có thơ mới đuối như vậy được. Tiếp theo thi sĩ thả một câu đến xao lòng. Xin em hãy cứu tôi đang mắc cạn trưa cù lao em ạ. Mắc cạn mà mắc cạn trưa ở trên cù lao mới hay chứ. Nhà thơ quá khéo léo dùng phương pháp tu từ, tạo nên cái cớ, chỉ có thơ mới có được mắc cạn trưa ở cù lao em ạ. Buổi trưa trên cù lao dòng sông ấy, nhà thơ đang mắc cạn cái đẹp, có tuyệt dịu hay không? Có ai nỡ lòng nào từ chối mà không tình tứ một chút với thi nhân khi đang xôn xao bến nước. Và rồi khi đã được cứu vớt trong nhay nháy ấy, thi nhân lại toan tính gì nữa đây: Hãy nhón gót đỡ tôi lên để tận hưởng mùi hương cây trái/ Mai này xa, tôi còn lại hương em. Quả là tuyệt vời của khéo léo thơ. Từ ngữ khôn khéo đến tuyệt diệu, thi sĩ đã tạo ra cái cớ đuối sức, mắc cạn trưa, để thưởng thức mùi hương cây trái nhưng mục đích cuối cùng chỉ là Mai này xa tôi còn lại hương em như vậy người thơ được thưởng thức cả hai. Hương em sao mà quyến luyến thế, mai sau vẫn còn trong tâm tưởng sâu xa. Xin thưa các bạn, đó là nghệ thuật tình tứ trong thơ, nghệ thuật đi đến trác tuyệt trong câu chữ, tìm đến biểu cảm nhân cách của thơ, dẫn dắc người đọc bài thơ vào cõi thần tiên, bởi vì đó là trách nhiệm của thi nhân tạo nên nhan sắc của tác phẩm.

Rồi tôi sẽ là con thuyền mai mãi lênh đênh

Trong vô hạn con thuyền có bờ, có bến

Sông cứ chảy dài có khi nào tôi gặp lại thuyền em

Làm sao tôi biết được, khi tôi đi ngang, còn em thì đi dọc

Chỉ có sông mới biết tôi bao lần mệt nhọc     

Đem trái tim bỏ ngỏ để chờ ai

Qua sông Tiền hôm ấy dễ đâu phai.

Thưởng thức đến đoạn cuối của bài thơ, ta thấy rõ thi nhân đến với quê em hai mùa mưa nắng, anh như con thuyền lênh đênh mãi miết cuộc hành trình, rồi trở về với bờ bến nơi xa lắm. Song cái chất hào hoa lãng mạn của thi sĩ tạo nên những ao ước bao giờ gặp lại thuyền em trong khi anh đi ngang mà thuyền em thì đi dọc. Hôm nay anh trở về và đang đi trên dòng sông đa tình đó mà anh. Con người, dòng sông nơi đây, chiếc áo bà ba óng ánh lãnh Tân Châu. Con đò ngang, chiếc thuyền đi dọc, nơi cù lao mắc cạn, nơi chật chội tôi bởi những đường cong, bởi ánh mắt nụ cười duyên dáng vẫn tươi nguyên làm nên chất liệu bài thơ. Nơi mảnh đất chín rồng lần đầu về đây thi nhân đã bị hút hồn đến đắm đuối, trở dạ sinh ra thi phẩm “Ánh mắt sông Tiền”. Thi phẩm để lại tình cảm lưu luyến trong những kí tự văn học đẹp đẽ, lãng mạn, tạo nên bài thơ dễ thương hấp dẫn đến thế.

Cảm ơn thi sĩ  Xuân Trường người đã sinh ra đứa con thơ lãng mạn với những đường cong chật chội tôi vào em đến no tròn con mắt. Cùng lãnh Tân Châu, chiếc áo bà ba, con thuyền… trên dòng sông thơ của thi nhân khắc vào tâm trí của tôi.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm
Con người Chí Phèo
Cái chết của Chí phèo như bản cáo trạng về xã hội thực dân nửa phong kiến thối rữa, nhàu nát, là tiếng kêu oan khốc thấu tận trời xanh của những kiếp người “siêu khổ”.
Xem thêm