TIN TỨC

“Hai phía một đời sông” - thơ Nguyễn Vĩnh Bảo

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-11-23 15:54:32
mail facebook google pos stwis
3543 lượt xem

ĐẶNG NGUYỆT ANH

Mời các bạn đến với “HAI  PHÍA  MỘT  ĐỜI  SÔNG”.

Sông Chanh của Nguyễn Vĩnh Bảo nhỏ bé lắm.

Không sóng trào nước xoáy như Cửu Long Giang của Nguyễn Bính.

Không réo sôi lên truyền thống Bạch Đằng như của Nguyễn Hải Trừng.

Không cuồn cuộn dâng trào như Sông Thao của Đỗ Nhuận.

Không nằm nghiêng nghiêng trong kháng chiến trường kỳ như sông Đuống của Hoàng Cầm.

Không dạt dào như Vàm Cỏ Đông của Hoài Vũ.

Và cũng không nồng nàn da diết như con sông quê hương của Tế Hanh...

Sông Chanh của Nguyễn Vĩnh Bảo nhỏ bé lắm, êm đềm lắm, lặng lẽ lắm, hiền hòa lắm…

Dịu dàng e ấp như thiếu nữ mới lớn

Sông  chảy qua một miền quê cũng lặng lẽ, êm đềm, hiền hòa …

Đó là miền quê  Vĩnh Bảo, Hải Phòng. Miền đất Học, đất Quan, đất Trạng Trình, đất sinh hương,  đất thuốc lào, đất Cổ Am gái đẹp…

(Tôi đã đến Vĩnh Bảo, đi qua Cầu Mục, Cầu Muôn, không biết đã đi qua sông Chanh của Nguyễn Vĩnh Bảo chưa?)

Qua 6 tập thơ, tập nào NVB cũng nói tới sông Chanh, nhắc đi nhắc lại không biết bao nhiêu lần.

Sông Chanh quấn quýt, vương vấn hồn anh, chảy qua đời anh, chảy qua thơ anh: “Đời ta rồi cũng như sông/ Chảy mãi, chảy đến mênh mông biển chờ...”

Hai phía một đời sông, là những phía nào vậy? Ấy là phía lở - phía bồi, phía đầu nguồn - phía cửa bể, phía xa xưa - phía mai sau, phía anh - phía em, phía thực - phía mơ, phía yêu thương - phía giận hờn, phía quên - phía nhớ... “Có khi nào ngắm bờ quên bờ nhớ/ lở và bồi năm tháng nuôi ta”.

Cuộc mưu sinh khốc liệt, có thể bật con người từ đầu trời đến cuối đất. Nguyễn Vĩnh Bảo cũng nằm trong vòng xoáy ấy. Anh phải xa quê hương, xa sông Chanh yêu dấu với bao kỉ niệm thân thương “Một con đò nhỏ đi về/ Bóng sông trôi giữa bộn bề áo cơm”. Nhớ quê là nhớ Mẹ, nhớ sông : “Mẹ ngồi giặt chiếc áo nâu/ Mồ hôi mặn xuống một đầu con sông”. Sông Chanh và quê nghèo đã gắn bó máu thịt với NVB. Thương quê, thương sông càng thương Mẹ. Càng thương những phận người lam lũ sớm hôm, đầu tắt mặt tối, chân lấm tay bùn, vẫn không thoát  khỏi cảnh nghèo khó “Thương cho thân phận nhà nông/ Trông trời trông đất vẫn không thoát nghèo”.

Mẹ là niềm thương cảm lớn nhất, là nỗi trăn trở nhiều  nhất, Mẹ đã tận tụy hy sinh cho con. “Chiến  tranh cong hai đầu Tổ quốc…  Mẹ đã sống những ngày buồn dài, vui ngắn/ Giấu nụ cười vào vầng trăng xa xôi”. Mẹ đã đi xa rồi, nhưng Mẹ vẫn như còn đâu đây, vẫn đi về bên con, vẫn nghe Mẹ kể ngày xưa, thực mơ đan xen hòa quyện “Sông Chanh vỗ khúc ngày xưa/ Mẹ tôi vẫn kể…như vừa hôm qua”. Bóng hình Mẹ vẫn  vô cùng gần gũi.

Và con, đi đâu rồi cũng “Trở về Mẹ”.  Như cây nhớ gốc, như sông ơn nguồn.  “Chẳng có gì xô đẩy được con/ Cắt giọt máu con chảy ngoài tim Mẹ/ Dẫu tuổi con có bao nhiêu lầm lỡ/ Vẫn nhìn trời, hướng Mẹ mà đi”…  “Con trở về những vui buồn đích thực/ Trong ngôi nhà Mẹ đã sinh con”… “Con đã ra đi, con đã trở về/ Nơi Mẹ có con, nơi con có Mẹ”.  Những câu thơ về Mẹ thật giản dị mà người đọc rưng rưng!…            

Nguyễn Vĩnh Bảo vẫn giữ được cái hồn quê thuần khiết, với giọng lục bát mượt mà duyên dáng:

Và tin nụ sẽ thành hoa/ Thơm cho hết những ngày ta đợi chờ”, “Cuối trời có cuộc bể dâu /Một người ngồi nhớ đẩu đâu một người”, “Như loài hoa đẹp mong manh/ Dẫu không thành quả, cũng thành hương bay” …  Nhưng anh đã tự bứt phá, vượt lên chính mình. Trong “Hai phía một đời sông”, đột nhiên có những tư duy khác lạ lóe lên, mà người đọc không tìm thấy ở những tập thơ trước. Đó là suy ngẫm về những hiện tượng của đời sống sâu xa hơn, khúc chiết hơn, với thể thơ mới tự do, khoáng đạt, tha hồ tung hoành, chữ  nghĩa không bị câu nệ vào vần điệu: “Đó là những gì đã qua, lâu đến bao nhiêu cũng không già/ Chúng bám vào trí nhớ ta như da như thịt/ Đó là những bông hoa/ Bị mùa đông tước đoạt/ Đó là những lâu đài trên cát/  Bị sóng cuốn phăng/ Đó là anh và em/ Cứ hướng vào nhau mà không bao giờ tới/  Đó là những gì vô cùng thương mến/ Đã ở lại sau lưng/… Một đi không trở lại”…                     

Như anh và em, cứ hướng vào nhau không bao giờ tới! Một tứ thơ đẹp. Biểu hiện cho tình yêu đẹp. Biết là không tới vẫn hướng về nhau! Dám hy sinh, hy vọng, đợi chờ chung thủy!

Cùng với cả dân tộc, NVB cũng qua một thời chiến tranh, lửa đạn ác liệt, vật lộn từng ngày “Mặt trời trên đầu chín v/ Bom rơi, đạn lạc cánh rừng”, “Thời bạt ngàn mơ ước/ Thời bạt ngàn hy sinh/ Ta quay về tìm em/ Đốm sao xanh tự sáng/ Trên cung đường im lặng/ Của đêm nào giao liên”  Cái thời “Áo người người nhuộm màu lá ngụy trang/ Chân đi dép cao su, đầu đội mũ sắt/ Hầm cá nhân mọc san sát trước nhà”… Những ngày sống chết cận kề giây phút, lại là những ngày đẹp nhất. Nói như Chế Lan Viên: “Những ngày ta sống đây là những ngày đẹp hơn tất cả”.  Con người sống có lý tưởng cao đẹp. Sẵn sàng hy sinh, sẵn sàng dâng hiến cho Tổ quốc, cho nhân dân.

Bây giờ, cuộc sống thanh bình, không còn phải giành dật với áo cơm. Anh đã đi qua sóng gió cuộc đời, đã đầy đủ trải nghiệm, qua cái tuổi “Tri thiên mệnh”. Anh đã nắm chắc được quy luật của cuộc sống. Mọi cái mất còn, thua được, vui buồn, thành bại đều rất tự nhiên. Đến cái lá cũng có số phận. Vì vậy, chẳng cái gì anh cho là còn, chẳng cái gì anh cho là mất. Anh nhìn mọi vấn đề đều trầm tĩnh và bình thản “Từ có đến không/ từ không đến có/ Trăm phần trăm cuộc đời/ Cái nửa không: chưa hẳn chẳng tiếng cười/ Cái nửa có: chưa hẳn không nước mắt/ Quên hơi thở mùa thu xao xác/ Lá rơi hoài như đến lúc phải rơi”. Vâng,  cái gì đến ắt phải đến…

Từ một cái nền cũ, thơ năm chữ, Nguyễn Vĩnh Bảo đã  quan sát tinh tế và biểu hiện lạ, đầy biến hóa trong sử dụng ngôn ngữ,  gây sự chú ý và  hứng thú cho người đọc: “Một đám cưới đi qua/ Một đám ma đã tới/ Vừa hoa trắng phơi phới/ Đã hoa vàng hắt hiu/ Vừa gặp gỡ nụ cười/ Đã đụng ngay nước mắt/ Vừa trên kia vi vút/ Đã dưới này âm u/ Vui buồn tự nhiên thu/ Son phấn và hương khói…”

Trong cuộc đời mỗi người chúng ta, ai cũng có ít nhất một dòng sông.

Tôi quả quyết với các bạn, NVB đã phải lòng sông Chanh từ thời trai trẻ, và cho đến bây giờ, tình yêu ấy vẫn đằm thắm, mặn mà…  Sông Chanh với anh vẫn là siêu phẩm… Anh vẫn phải về “nương tựa vào sông”. Anh luôn lo lắng băn khoăn cho số phận của dòng sông, rồi sẽ ra sao? Chảy đến bao giờ? Hỏi sông hay hỏi lòng mình đây! “Lở bồi hai phía ầu ơ/ Ngàn năm chảy đến bao giờ/ Sông ơi!”. Sông sẽ  chảy qua đời anh, chảy qua thơ anh. Chảy qua những phận người lam lũ! Chảy mãi, chảy mãi  đến vô cùng!

Sông Chanh nhỏ bé trong thơ NVB, cũng đủ sức rung, sức ngân  cho ta cảm tình, thương mến.

Nó không có trong bản đồ Địa lý Việt Nam, nhưng giờ đây NVB đã ghi tên sông Chanh trong “Bản đồ thi ca”. Xin chúc mừng anh!

 Sài gòn, ngày cuối cùng của  tháng 6 năm 2021. 

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm