TIN TỨC

Hồn nhiên như tuổi thơ còn sót lại

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-09-22 10:08:54
mail facebook google pos stwis
1921 lượt xem

Nhà văn NGUYỄN TRƯỜNG: Nhà văn Nguyễn Khải từng viết "Năm 70 tuổi tôi bắt đầu chán viết, người rã ra, đọc sách... chả rõ mình đang đọc gì...". Tôi sợ mình cũng đến lúc như thế, mà tuổi 70 đã cận kề, phải tranh thủ viết thôi. Bởi vậy tôi ít đàn đúm, sợ mất thời gian. Tôi viết về sự nghiệp nhà văn nào là bởi họ đã già, bị bệnh hiểm nghèo, để động viên họ như nhà văn Nguyễn Vũ Tiềm, Triệu Xuân, Nguyễn Khoa Đăng, Trúc Phương. Còn viết về tác phẩm nào là do mình thích, ngoài vòng bè phái và "ân oán giang hồ". Nay tôi viết về Tuyển tập thơ Trần Mạnh Hảo (báo Văn nghệ số 39) là vì văn học, mong được bạn đọc thể tất.

HỒN NHIÊN NHƯ TUỔI THƠ CÒN SÓT LẠI
(Đọc Tuyển tập thơ Trần Mạnh Hảo- nxb Hội Nhà văn 2022)

NGUYỄN TRƯỜNG

Tuyển tập thơ Trần Mạnh Hảo, dày gần 500 trang, khổ 16 x24 cm, bìa cứng, vừa ra mắt độc giả tháng 8 năm 2022 gây xôn xao dư luận, 1000 cuốn đã bán hết trong vòng 1 tháng. Đó là hiện tượng lạ, vì những năm gần đây các tác giả in thơ chỉ để biếu tặng.

Tại sao Tuyển tập thơ Trần Mạnh Hảo lại gây được sự chú ý của dư luận, được sự đón tiếp nồng nhiệt của độc giả? Có lẽ đã mấy chục năm nay thơ Trần Mạnh Hảo không xuất hiện trên báo chí cũng như xuất bản. Trong trí nhớ của nhiều người, thơ Trần Mạnh Hảo như là thứ rượu thơm ngon, từ lâu chưa được nhấp lai, càng làm người ta mong nhớ. Thì nay, tuyển tập thơ hơn nửa thế kỷ- kể từ ngày anh in bài thơ đầu tiên trên báo Tiền phong năm 1962, quả là có sức nặng chữ nghĩa. Nhưng trên hết tập thơ gần 600 bài, từ thơ tứ tuyệt đến trường ca, như Mỹ tửu cất lâu ngày, say lúc nào không biết.

Trong tuyển tập thơ, ta dễ nhận ra thi pháp thơ Trần Mạnh Hảo, trước hết đó là thơ có tứ hay. Trong bài thơ, tứ thơ triển khai theo chiều dọc, còn thơ viết theo cảm xúc thường thể hiện qua chiều ngang. Nhà thơ Nguyễn Vũ Tiềm đúc kết kinh nghiệm làm thơ: “Túi nhà thơ có ba ngăn/ Tứ- Từ- Tư đủ quanh năm tiêu xài” (Tứ là tứ thơ. Từ là từ ngữ. Tư là tư tưởng). Trong tuyển tập thơ ta gặp phần lớn bài thơ có tứ hay như: “Mặt trời và hạt sương”: “Mặt trời không mang nổi/ dù một hạt sương rơi/ Nhưng trong hạt sương ấy/ Có bao nhiêu mặt trời”. Bài “Bác gấu trả lời”: “Bác xơi toàn mật ong/ Mà sinh mật đắng thật/ Lấy cái ngọt tận cùng/ Làm nên cái đắng nhất”. Bài “Giữa nước Nga tìm một con kiến” cũng có tứ thơ độc đáo: Nhà thơ đến nước Nga, chợt phát hiện trong vali có chú kiến: “Một chú kiến Việt Nam bé nhỏ/ Đã leo qua sáu quốc gia mười bảy nghìn cây số/ Không biết chú đã biết mình bò tận tới Liên Xô”. Để tác giả có cớ mà triết lý: “Tổ quốc có bao giờ người hóa thân thành kiến/ Lặng lẽ bò qua sự vĩ đại của mình/ Như những đứa con vượt Trường Sơn ra thế giới/ Không còn thích đóng vai người hùng cứu chuộc hành tinh”.

Nhà thơ trước hết phải xúc động viết nên bài thơ thì mới mong làm rung động được trái tim độc giả. Còn nhiều yếu tố làm rung động độc giả như tài năng, tài sử dụng ngôn từ, thơ phải có hình ảnh, thi tại ngôn ngoại... Thơ cần đa nghĩa, nhưng phải để cho độc giả hiểu. Thơ tù mù, rối rắm không hiểu thì làm sao người ta cảm được. Anh phản đối thơ chỉ cần cảm không cần hiểu. Không có nhận thức, không có con người. Hiểu, chính là nhận thức của con người.

Yếu tố phi lý và hợp lý trong tương quan với hình thức và nội dung thơ được ông sử dụng khá nhuần nhuyễn: “Ngọn lửa rét run trên củi ướt/ Cháy lem nhem dáng dấp con người”. (Tổ quốc của tình yêu) “Sông già nhất sông từng nhiều tuổi nhất/ Mà sóng đùa như trẻ mới lon ton” (Những dòng sông Nam bộ); “Khái niệm tự do làm ta khổ/ Hạnh phúc giam cầm nỗi khổ đau” (Tự do).

Nhưng tập trung nhất trong thi pháp thơ Trần Mạnh Hảo là nghệ thuật ẩn dụ. Hầu hết trong tuyển tập thơ là dùng hình tượng ẩn dụ. Những bài thơ Trần Mạnh Hảo viết về quê hương, đất nước đều hay, đều tràn đầy cảm xúc, bởi anh yêu đất nước này, không dưng gì tác giả lấy hai câu thơ trong bài “Nhân xem phim sám hối nghĩ về Boris Pasternak” làm đề từ: “Ôi đất nước/ Anh yêu đến băng hoại cả đời”. Đất nước của anh không thể hiện trực diện, nói tuột ra mà qua hình tượng văn học, qua ẩn dụ, nên thêm tầng ý nghĩa. Bởi thế, những bài thơ hay nhất của Trần Mạnh Hảo là viết về các dòng sông dọc dài đất nước như: Sông Hồng, sông Mã, sông Lam, sông Hương, sông Thu Bồn, sông Cửu Long... Con người ở dọc theo dòng sông từ ngàn xưa đã anh dũng chống ngoại xâm, cần cù lao động làm nên non nước hôm nay: “Con mới hiểu biển vì sao khát nước/ Triệu năm còn ừng ực uống dòng sông/ Vì sao Lạc Long Quân lấy sông Hồng làm đuốc/ Soi nước Văn Lang từng bước tiên rồng” (Sông Hồng). Viết về Thanh Hóa, nhà thơ cảm hứng từ trong lịch sử, các anh hùng dân tộc đã lãnh đạo nhân dân ta đứng lên chống giặc ngoại xâm và mở mang bờ cõi như Bà Triệu, Dương Diên Nghệ, Ngô Quyền, Lê Lợi, Nguyễn Hoàng... Nhà thơ khái quát hoá hình tượng đó bằng những dòng sông: “Một bên sông Trâu, một bên sông Ngựa/ Kéo tỉnh Thanh vào Thuận Hóa mở sơn hà”; “Sông linh hiển đất ngựa lồng, trâu húc/ Tổ quốc còn Thanh Hóa sợ gì đâu?” (Thanh Hóa). Trong tuyển tập, theo tôi bài thơ hay nhất là bài “Sông Lam”. Tác giả lấy con sông để nói về người dân xứ Nghệ nổi tiếng cần kiệm, bởi vùng đất đó vốn “khắc nghiệt về điều kiện tự nhiên, cằn cỗi về điều kiện thổ nhưỡng” nên con người càng phải chống chọi lại những gian khó đó để sinh tồn, do đó cũng tạo ra tính cách người xứ Nghệ: “Sông vắt kiệt lòng mình nuôi đất cát/ Thương đất nghèo sông xanh rớt mồng tơi/ Sông ẩn hồn trong vại cà, vại nhút/ Một củ khoai cũng lấp ló mây trời/ Con cò mặc áo tơi đi học/ Cá sông Lam còi cọc toát mồ hôi/ Gió hào kiệt thổi xơ Nghệ Tĩnh/ Cá gỗ nuôi lớn những thiên tài”. Những con người xứ Nghệ ham học, nên dân xứ Nghệ tài giỏi ở đủ mọi lĩnh vực, con đường học cũng là con đường để họ thoát cảnh bần hàn: “Đến cỏ dại cũng mọc thành chữ nghĩa/ Đồ nghệ sông Lam dạy biển cả học bài”. Người xứ Nghệ rất anh dũng trong chiến tranh bảo về Tổ quốc: “Để rú Quyết lặng thầm đi cứu nước/ Sông veo veo trời đất thoắt sen vàng/ Sông Lam ăn cát mà xanh, uống trời mà mát/ Trăng cháy hết lòng sâu quyết liệt cả cơ hàn”. Thật hào sảng, thật sâu sắc!

Một dải đất miền Trung làm nên “Đất nước hình tia chớp”. Mảnh đất “Mang hình dáng em”. Anh khái quát về miền Trung: “Những dòng sông nhất định về ngang/ Để lịch sử chảy về chiều dọc”. Miền Trung có sông Mã, sông Chu, sông Lam, sông Nhật Lệ, sông Gianh, sông Hương, sông Thu Bồn, sông Trà Khúc, sông Côn, sông Đà Rằng... rất nên thơ lại hàm nghĩa văn hóa ngàn năm của dân tộc: “Những dòng sông miền Trung/ Như những thắt lưng đất nước/ Thắt lưng đất nước cho chặt/ Mà đi xuống biển/ Mà đi lên rừng”.

“Những dòng sông Nam bộ” lại là những ẩn dụ khác về người dân dọc con sông Cửu Long “Nông dân Nam bộ gối đất nằm sương/ Mồ hôi vã bãi lầy thành đồng lúa” (Cửu Long giang ta ơi- Nguyên Hồng). Trần Mạnh Hảo cũng cảm xúc về con sông Cửu Long này: “Những dòng sông làm nên làng nên xóm”. Những dòng sông chở nặng phù sa bồi đắp nên đồng bằng rộng lớn, vựa lúa của cả nước được tác giả ví như người khỏe mạnh: “Những dòng sông như những người chạy bộ/ Cứ đuổi theo bóng dáng chân trời/ Sông khỏe quá chạy hoài thành châu thổ/ Chạy qua rồi sông để lại lúa khoai”. Dòng sông cũng như tính cách con người Nam bộ, phóng khoáng, thích tự do, không muốn làm phiền người khác “Những dòng sông mang buồn vui sướng khổ/ Một đời sông không phiền lụy đê điều”. Tác giả trải hết lòng mình với dòng sông êm đềm này đến trọn đời: “Anh mới sống được một phần thương nhớ/ Bởi dòng sông cứ đến chảy qua nhà”.

Tây Bắc có hoa ban được ẩn dụ như người con gái Thái, như hình tượng Tây Bắc hùng vĩ: “Anh từng ước cùng hoa ban tắm suối/ Trời hở hang mây trắng khỏa lưng trần”. Nhà thơ ước thôi, để có lý do tưởng tượng trời đất, thiên nhiên cũng giao tình, lôi cuốn: “Hôn nước suối nõn nà hương con gái/ Cả núi rừng xao động ngoái thèm hoa/ Xin ôm xiết trọn linh hồn xứ Thái/ Inh lả ơi lồng lộng một đôi tòa”. Lồng lộng như một tòa thiên nhiên Thúy Kiều của Nguyễn Du tắm, nhưng trong thơ Trần Mạnh Hảo không phải người con gái tắm mà thiên nhiên, sông suối, văn hóa xứ Thái tắm: “Em cỡi hết mây trời trăng nõn tuyết/ Hoa ban còn trinh tiết mãi ngàn năm/ Yêu dấu hỡi xin suối nguồn tâm huyết/ Giữ dùm anh trăng khuyết nở nang rằm”. (Hoa ban em ơi). Quả là nhà thơ say mê Tây Bắc đến mụ mị, đến “băng hoại cả đời”.

Một bài thơ hay ít nhất phải có từ đôi ba câu thơ hay. Chính những câu thơ hay làm sáng cả bài thơ. Thậm chí trong câu thơ hay lại có một hai từ cực hay. Bài thơ “Cửu Long Giang ta ơi” của Nguyên Hồng thỉnh thoảng có vài câu thơ hay, trong nhưng câu thơ đó có vài từ “đinh”: “Ngẫm nghĩ voi đi/ Thác Khôn cười trắng xóa”; “Suối mát dội trong rừng dừa trĩu quả”. Trong tuyển tập thơ Trần Mạnh Hảo, bài Sông Lam và bài “Hoa ban em ơi”, dày đặc nhưng câu thơ hay: “Khoai lang gàn, luống dọc thích bò ngang”; “Người giàu có nên đất nghèo khô khát/ Kìa gió Lào thổi cong sông Lam” (Sông Lam). Có thể lẩy ra trong tập trùng trùng điệp điệp câu thơ hay: “Những vạt lục bình hoa vừa đi vừa nở/ Để đôi bờ sót lại những bài ca” (Những dòng sông Nam bộ); “Hồn ta làm cá cho trăng lưới/ Nghìn năm ta chết đuối giữa trời” (Lý Bạch, thơ hay có thể bị vua bắt); “Hoa ban nở thành người con gái Thái/ Đám mây bay trong thau nước gội đầu”; “Nơi con thác giữ nụ cười em lại/ Tiếng Thái thương như cầm được giữa tay mình” (Gửi Lai Châu); “Cái duyên là cái vô tình/ Ai mà cố ý không thành được duyên”; “Bánh dầy trắng bánh chưng xanh/ Đất trời kia cũng sinh thành bởi ta” (Đất nước hình tia chớp); “Sông Hồng lụt cả ca dao/ Con cò bị bão giạt vào lời ru” (Sông Hồng)...

Trần Mạnh Hảo nói nhiều về lịch sử, về các nhân vật lịch sử, các văn nghệ sỹ trong và ngoài nước... cũng chỉ mượn hình tượng người xưa để nói nay, để triết lý về vấn đề nào đó tùy thuộc vào thi hứng. Anh từng định nghĩa về thơ: “Thơ chính là tuổi thơ của loài người còn sót lại”, bởi thế thơ phải hồn nhiên, không cố ý, như là cái duyên của người con gái. “Cái duyên là cái vô tình”. Thơ không phải là triết học, thơ chỉ phảng phất màu sắc, hương vị cuả triết học, của tâm linh. Nó vừa hư vừa thực. Trong những câu thơ hay nó nửa hư nửa thực của anh: “Nắng trộn vào mưa, mưa trộn nắng/ Trời đất mà như tóc muối tiêu/ Ngày trộn vào đêm / Năm trộn tháng/ Anh trộn vào em hết mọi điều”. Thơ anh có nhiều câu khái quát một cách không khái quát. Những bài thơ tứ tuyệt của anh thường dồn nén, có tính khái quát rất cao, đặc biệt là ở câu kết: “Tỉa mấy cành khô toan chụm lửa/ Vài hôm chồi rỉ giọt đào hoa/ Mùa xuân đâu phụ lòng cây củi/ Cành đứt lìa thân nụ mới òa” (Củi và hoa).

Trần Mạnh Hảo vẫn trung thành với thơ truyền thống. Trong tuyển tập thơ ta gặp nhiều bài thơ lục bát, thơ tứ tuyệt, nhưng anh cũng có cả thơ không vần. Thật ra thơ không vần không mới. Từ Văn Cao, Thanh Tâm Tuyền, Trần Mai Ninh... thời chống Pháp đã làm thơ không vần. Trần Mạnh Hảo tâm sự, anh chịu ảnh hưởng của thơ Chế Lan Viên ở thơ tứ tuyệt. Không có Chế Lan Viên không có Trần Mạnh Hảo. Nhưng với Trần Mai Ninh lại là thần tượng thơ không vần của Trần Mạnh Hảo, mặc dù Trần Mai Ninh chỉ có ba bài thơ không vần, nhưng đó là ba bài tuyệt tác. Ta gặp các bài thơ không vần của Trần Mạnh Hảo trong tuyển tập như: “Thanh Tùng- người ăn hải cảng”; “Nghe nàng Vọng Phu Solveig hát”; “Bài ca vỏ ốc”... Trần Mạnh Hảo có đến chục bài thơ không vần.

Trung thành với thơ truyền thống, với tiêu chí thơ để hiểu, Trần Mạnh Hảo đã để lại cho đời một tuyển tập thơ nhiều tìm tòi đổi mới về thi pháp, có tính khái quát mang hương sắc triết học mà vẫn hồn nhiên như tuổi thơ còn sót lại.

N.T.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm
Tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại - một số xu hướng chủ yếu
Giữa lúc tiểu thuyết và phim Mưa đỏ của Chu Lai làm dấy lên nhiều tranh cãi về ranh giới giữa lịch sử và hư cấu, bài viết của PGS-TS Nguyễn Văn Dân đem lại một cái nhìn hệ thống về tiểu thuyết lịch sử Việt Nam đương đại.
Xem thêm
Khơi dậy sức sáng tạo văn học nghệ thuật trong lực lượng sáng tác trẻ ở miền núi - Thực tiễn và kỳ vọng
Cần phải làm gì, làm như thế nào để khơi dậy sức sáng tạo của những người sáng tác trẻ; để tạo môi trường nuôi dưỡng họ trở thành lực lượng sáng tác chuyên nghiệp?
Xem thêm
Thử giải mã ba nhà văn khó đọc ba miền
Ba miền đất nước, ba cá tính sáng tạo khác biệt – Nguyễn Bình Phương với “hiện thực lũy thừa”, Nhật Chiêu cùng “thể Sương” mơ huyền, và Ngô Phan Lưu qua “lối viết nông dân” thấm đẫm đời thường.
Xem thêm
Thoát khỏi thân phàm - Tiểu luận của Hồ Anh Thái
Bản năng tự vẫn nằm im cũng có khi bất ngờ trỗi dậy. Không phải là muốn chết. Chỉ là “một lúc” mà thôi. Được thoát ra khỏi thế giới này trong chốc lát, được thấy mình đã thoát hồn khỏi thân phàm, được thấy người ở lại người cười người khóc. Xong đâu đấy, ta trở lại, tái sinh, nhìn cuộc đời bằng cặp mắt mới. Cuộc đời dù có vắng ta cũng chẳng làm sao.
Xem thêm
Chạm thu - chạm ngưỡng cửa thu về
Chạm thu – tập thơ mới của bác sĩ, nhà thơ Mai Hữu Phước mang đến những chiêm nghiệm lắng sâu về đời người và tình thơ. Bài viết của Lê Bá Duy gợi mở một hành trình thi ca giàu cảm xúc, chân thành và đầy dư âm.
Xem thêm
“Tình đất biên cương” – Tập truyện giàu giá trị hiện thực và giá trị nhân văn
Những người từng quen biết và cùng công tác với anh luôn nhận thấy anh là một cán bộ gương mẫu, trách nhiệm, tác phong nhanh nhẹn, ngôn từ giao tiếp hoạt bát. Tuy nhiên, ít ai biết trong anh tiềm tàng một khả năng sáng tác văn chương như vậy. Khi hoàn thành nhiệm vụ công chức, được nhà nước cho nghỉ chế độ, cũng chính là lúc “anh hoa phát tiết”, các thể loại thơ, tản văn, truyện ký, tiểu thuyết,… được thể nghiệm và đáng nể nhất là hai tập sách dày dặn (Truyện ký Tình yêu người lính - NXB Thanh niên năm 2021, 364 trang và tiểu thuyết Hoa trong mắt bão - NXB Hội Nhà văn năm 2023, 570 trang) và hiện tại trên tay tôi là tập truyện ngắn Tình đất biên cương.
Xem thêm
Ẩn số đường đến thơ của Trần Hóa
Bài đăng Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số tháng 9/2025
Xem thêm
Nhà lý luận phê bình Đỗ Nguyên Thương và tập thơ “Tìm về miền ký ức”
Tôi quen nhà giáo, nhà Lý luận Phê bình văn học Đỗ Nguyên Thương thật tình cờ trong buổi Tọa đàm về Thơ 1-2-3 do nhà thơ Phan Hoàng chủ trì có sự phối hợp của Hội nhà văn Cần Thơ và khoa Khoa học Xã hội và Nhân văn tường Đại học Cần Thơ.
Xem thêm
Tư tưởng nhân dân anh hùng
1. Vì tình yêu quê hương đất nước, Trần Bảo Định đến với văn chương. Nhà văn Long An để lại dấu ấn đáng kể trong sinh hoạt văn chương từ những năm 2010 đến nay. Bên cạnh bộ sách Đất và người Nam Bộ mến yêu gồm 14 tập truyện ngắn, Trần Bảo Định còn có 6 tập thơ, 5 tập tiểu luận phê bình. Năm 2024, nhà văn trình làng tuyển tập Đất Việt trời Nam liệt truyện gồm 3 tập (thượng, trung, hạ) do Nxb Tổng hợp Thành phố Hồ Chí Minh ấn hành. Tái hiện diễn trình lịch sử vùng đất Nam Bộ từ hồi một 1620, hồi hai 1859, đến hồi ba 1900, tuyển tập có thể xem như trường thiên tiểu thuyết ca ngợi tinh thần đấu tranh yêu nước anh dũng của nhân dân Nam Bộ, như lời giới thiệu của Nhà xuất bản: “Chính các anh hùng vô danh mới thể hiện toàn bộ chủ đích nghệ thuật của Trần Bảo Định, cho thấy tư tưởng: nhân dân anh hùng!”
Xem thêm
Thơ tình Nguyên Bình đắm đuối
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Các nhà thơ từ cổ chí kim không nhiều thì ít đều viết thơ tình, điều đó không có gì lạ; vì tâm hồn họ lãng mạn, mơ mộng, tôn thờ phái đẹp. Nhà thơ Nguyên Bình không nằm ngoài số đó. Anh viết văn làm thơ từ thời sinh viên, cả trước và sau năm 1975. Những bài thơ tình, anh không dám trao tay cô nữ sinh xinh đẹp xứ Huế anh yêu say đắm: Vẫn mãi “Là bài thơ còn hoài trong vở/Giữa giờ chơi mang đến lại mang về” thơ Đỗ Trung Quân.
Xem thêm
Mỹ cảm của kiểu tự sự trong suốt trong tập tản văn “Nỗi buồn trong suốt” của Nguyễn Đức Phú Thọ
Tản văn là một thể loại dễ tiếp cận với mọi mặt của đời sống thông qua những lát cắt hiện thực, nhưng trung tâm tinh thần của thể loại này lại là cái tôi tư tưởng, cảm xúc của người nghệ sĩ. Tản văn vừa đậm chất trữ tình, vừa mang bản chất tự sự. Mỗi tác phẩm là một cách diễn giải về “Thế giới như tôi thấy”, đồng thời cũng là một tấm gương phản chiếu cấu trúc nội tâm của nhà văn.
Xem thêm
Cảm nhận thơ Trần Xuân Hóa từ một góc nhìn đa cảm
Bài viết của nhà thơ CCB Trần Trí Thông
Xem thêm
Hơi thở đất quê trong miền nhớ của Huỳnh Khang
Chủ đề và nội dung trong MIỀN NHỚ xoay quanh ký ức quê hương, tình mẫu tử, nghĩa làng nghĩa xóm, thiên nhiên, tình yêu đôi lứa, nỗi buồn mất mát, cùng những triết lý đời thường.
Xem thêm
Tiếng văn từ phía “bạn nguồn”
Nguyễn Minh Sơn, Hồ Tấn Vũ và Nguyễn Thị Như Hiền là ba cây bút thuộc thế hệ 7X và 9X
Xem thêm
Về trên dặm trường thiên lý “Miền Ô châu”
Tiếp theo các cuốn tản văn Sông vẫn chảy đời sông (NXB Thanh Niên 2023), Bốn mùa thương nhớ (NXB Thanh Niên 2024), nhà văn Nguyễn Linh Giang vừa ra mắt cuốn tản văn mới: “Miền Ô Châu” (NXB Phụ Nữ Việt Nam, 2025).
Xem thêm
Thơ ca chào đón Cách mạng Tháng Tám và Quốc khánh 2/9
Cách mạng tháng Tám - 1945 thành công, mở ra trang sử vàng chói lọi cho dân tộc. Bác Hồ đọc “Tuyên ngôn độc lập”, khai sinh ra Nước Việt Nam dân chủ cộng hòa. Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Á được thành lập. Hai tiếng Việt Nam vang lên đầy phấn khởi, tự hào trên trường quốc tế, đã khơi nguồn, làm bừng dậy biết bao cảm hứng về thơ ca, nhạc, họa thật mới mẻ, mãnh liệt và sôi nổi, làm không khí văn nghệ đổi sắc thay da. Từ đây nền văn học của ta chỉ còn duy nhất một trào lưu là văn học cách mạng.
Xem thêm
Hồi hộp trước “phút bù giờ” của Minh Đan
Ngôn ngữ của Minh Đan đôi lúc không còn chỉ là ký tự để giải nghĩa, mà là vật liệu có tâm hồn – biết khít lại, giãn ra, để tạo hình tượng và âm thanh.
Xem thêm
Phát triển
Nội dung quyết định hình thức. Xét cả quá trình văn học lâu dài, các hình thức tác phẩm kế tiếp nhau xuất hiện, tác động vào nền văn học, góp phần tạo ra phát triển văn chương. Bài viết chỉ đề cập đến chủ đề này của cuốn sách.
Xem thêm