TIN TỨC

Lê Xuân và những “hạt vàng” văn chương

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-07-22 08:04:01
mail facebook google pos stwis
2200 lượt xem

 PHẠM ĐÌNH ÂN

Nhà văn Lê Xuân (tên thật là Lê Xuân Bột) vốn là một thầy giáo dạy văn giỏi đã góp phần đào tạo bồi dưỡng nhiều học sinh đạt giải quốc gia. Song hành cùng nghề dạy học ông còn làm báo, viết văn, gắn bó với vùng đồng bào dân tộc Tây Bắc mười lăm năm và vùng Đồng bằng sông Cửu Long hơn bốn mươi năm nên nhiều bài viết của ông giàu chất liên tưởng về con người và vùng đất ở mỗi tác phẩm.

Gần nửa thế kỷ gắn bó với vùng sông nước miệt vườn Cửu Long mà Lê Xuân xem là “máu thịt”, là “quê hương thứ hai” của ông nên những trang viết thấm đẫm chất dân gian và trí tuệ của con người vùng đất này, đặc biệt là về mặt ngôn ngữ. Từ khi nghỉ hưu ông càng dồn sức cho những trang viết phê bình, và ông đã trở thành một nhà Phê bình văn học đích thực.

Lê Xuân đã xuất bản chín đầu sách về: Tiểu luận và Phê bình văn học, Chân dung văn học, Khảo cứu văn hóa, văn nghệ dân gian, Bình thơ, Truyện, Ký, Tản văn, Thơ… Nhưng thành công hơn cả vẫn là mảng Phê bình văn học. Cuốn “Nhặt những hạt vàng” gồm những bài viết về thơ, truyện, nhạc của một số tác giả mà ông yêu thích. Với 42 bài viết về các tác giả, tác phẩm và gọi đó là những “hạt vàng” mà ông “nhặt” được trên cánh đồng văn chương, rồi đồng điệu để viết lời cảm nhận. Qua đó người đọc sẽ thấy được những mặt thành công về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm, đặc biệt về cái mới, cái lạ mà nhà văn ấy có được để làm nên tác phẩm.

Nhiều tác giả trong tập sách đã quen thuộc với bạn đọc như: nhà văn Vũ Hồng, nhà thơ Đặng Vương Hưng, nhà thơ Trúc Linh Lan, nhà thơ Phạm Đình Ân, nhà thơ Bùi Đức Ánh, nhà văn Nguyễn Khai Phong, nhà thơ Bùi Văn Bồng, nhà thơ Phan Bá Linh, nhà thơ Trần Thanh Chương, nhà thơ Đặng Phúc Minh, nhà văn Phạm Văn Thúy, nhà văn Nguyễn Thanh… Và khi tập sách này ra mắt thì đã có một số tác giả đã về nơi vĩnh hằng, như: nhà văn Nguyễn Khai Phong, nhà thơ Nguyễn Đình Thắng (Cần Thơ), nhà thơ Nguyễn Văn Chương (Bắc Ninh), nhà thơ Lâm Tẻn Cuôi (Bạc Liêu), nhà thơ Bùi Văn Bồng (Thanh Hóa).

Ở mỗi tác phẩm, ông luôn chú ý phát hiện “thi pháp” mà tác giả biểu hiện qua ngôn ngữ và hình tượng nghệ thuật, rồi từ đó “Lấy hồn tôi để hiểu hồn người” (Hoài Thanh) và đưa ra những so sánh tương đồng giữa cách thể hiện nội dung, ý tưởng của tác giả này với tác giả khác. Với trường liên tưởng ấy, ông chỉ ra cái hay, cái đẹp, cái độc đáo của tác phẩm và sự thành công của tác giả. Ví như viết về tuyển tập “Bốn mươi năm lục bát mỗi ngày” của nhà thơ Đặng Vương Hưng: “Cái đáng quý trong lục bát của anh là luôn luôn giữ nụ cười lạc quan. Nó được tỏa sáng bởi cái “tếu táo”, cái “khiêm nhường” và “tự trào”. Có khi nó ẩn chứa tiếng cười của Tú Xương, Nguyễn Khuyến. Có lúc lại phớt đời, mang cái “ngông” của Tản Đà – Nguyễn Khắc Hiếu. Đâu đó lại hàm chứa tiếng cười của Bút Tre, Bảo Sinh, Trần Nhương… Thơ anh là thơ của “thảo dân”, thơ của “lính”, chất dân dã nổi trội nhưng không phải là không hàm chứa tính “uyên bác”.

Hoặc khi viết về tập truyện ngắn “Không phải lần đầu” của nhà văn Huyền Văn, ông nhận xét: “Người đọc bị ám ảnh về những câu chuyện tình đẹp được viết bằng lối văn nhẹ nhàng như văn Thạch Lam nhưng rất có duyên của người con gái Nam Bộ. Tác giả đã diễn tả tâm lý nhân vật một cách kín đáo qua ngoại cảnh và lời thoại…Tôi có cảm giác Huyền Văn đang quay những thước phim cận cảnh về những kỷ niệm vui buồn bị thôi thúc trong quá khứ. Và chị phải viết ra như thế để trả món nợ cho đời. Trong góc khuất tận cùng của con tim đã phát ra những lời tâm tình thỏ thẻ, khiến người đọc dâng lên một niềm cảm thông sâu sắc”.

Hay khi viết về tập nhạc “Thương hoài” của nhà văn, nhạc sĩ Nguyễn Thanh (Ngũ Lang) ông đã thể hiện sự thẩm định về nhạc và ca từ của tác phẩm này: “Nhạc của anh là tiếng lòng thâm trầm, sâu lắng và thường nghiêng về những hoài niệm, phần lớn được viết ở cung “Thứ”, nhịp 2/4 hoặc 4/4, một số bản viết ở điệu valse nhịp 3/4 với cường độ nhẹ và sắc thái biểu cảm gây nhiều ấn tượng. Ca từ đẹp, chắp cánh cùng giai điệu đậm chất dân ca Nam Bộ gợi nên một nỗi buồn khi lãng đãng như sương sớm, lúc mơ màng khi chiều buông, khi ngân vang những hoài vọng da diết của con tim đa sầu đa cảm”.

Viết Tiểu luận và Phê bình văn học là một công việc khó đòi hỏi người viết phải có vốn tri thức rộng, nhiều trải nghiệm, đi nhiều, đọc nhiều, có tâm hồn lộng gió bốn phương, thì ông đã có được phần lớn điều đó. Ở những bài viết ấy, ông nghiêng về phần “bình” hơn phần “phê”.

Ở những mặt hạn chế của tác phẩm ông có cách “phê” khéo, động viên tác giả dụng công hơn “Khơi những nguồn chưa ai khơi và sáng tạo những gì chưa có” (Nam Cao) chứ không như quan niệm Phê bình văn học phải là “cái roi” quất cho “con ngựa” sáng tác chạy. Ví như khi “phê” một số bài thơ còn non của Nguyễn Văn Chương (quê Bắc Ninh), ông viết: Chỉ hơi tiếc ở một vài bài anh còn rậm lời, loãng ý, hướng tới sự kết thúc có hậu, hoặc lạm dụng từ Hán Việt, hoặc cách diễn nôm câu thơ quá dễ dãi: như: “thiên cổ lụy”, “bá tử cân đai”, “môn đăng hộ đối”..., hoặc sa vào lời thơ như “khẩu ngữ”: “Cuốc nương còn cuốc phải bom đạn/ Lụt vừa năm trước, bão năm sau” (Dẻo thơm một hạt).

Dù viết về thơ hay truyện ông đều hướng người đọc đến với những “điểm sáng thẩm mỹ”, nhấn vào những “nhãn tự” của bài thơ mà tác giả đã gửi gắm thông điệp về nhân sinh, lòng nhân ái, để người đọc hướng tới Chân, Thiện, Mỹ. Điều đó đã giúp ông luôn luôn cộng hưởng và “đồng sáng tạo” cùng  tác giả.

 “Nhặt những hạt vàng” là tập Tiểu luận và Phê bình văn học mà phần lớn số bài đã được đăng trên các báo và tạp chí Trung ương và địa phương. Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm