TIN TỨC

Một bông hoa lặng lẽ thiền trên cát bỏng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-01 14:25:15
mail facebook google pos stwis
846 lượt xem

KHUẤT BÌNH NGUYÊN

Năm 1995. Khi đã bước vào tuổi 43, Mai Quỳnh Nam cho in tập thơ đầu tay Bước trượt. Sao ở cái tuổi ấy còn bước trượt được nhỉ? Và lại là bước đầu tiên của thơ ca? Thế là thấm thoắt một đời thơ. Đến năm 2024. Ngót nghét 30 năm rồi. 7 tập thơ ra đời.

Sau Bước trượtCác sự việc rời rạc. 2002. Phép thử thuật tư biện 2007. Biến thể khác. 2012. Không thiên vị.2014. Không tì vết. 2020. Một phía.2024. Giữa thời buổi người ta không mặn mà gì với thơ nữa, các mỹ nhân đa tình nhất phần nhiều liếc mắt vào cửa ngân hàng và trong khi người thi nhân ấy có thể làm nhiều công việc khác phục vụ cho sự tiêu dùng lại không làm mà nhất quyết đi làm thơ. Bởi thế, tôi trân trọng những gì mà cả một đời người đã gắn bó và lặn lội với Thơ, tưởng như chẳng bao giờ dứt được. Chao ôi! Cái nghiệp chướng văn chương là vậy đấy.

Vào thời điểm Mai Quỳnh Nam bước lên diễn đàn văn chương, đã xuất hiện những người ra đi từ Ngôi nhà tuổi 17 để ngẫm nghĩ về Sự mất ngủ của lửa, những người Củi lửa cho Thời đại thanh xuân. Và những viên tướng sống chết trên bãi chiến trường suốt thế kỷ 20, người ta đã cho viên tướng ấy về hưu để ngẫm nghĩ sự đời trong trang sách mà buộc lòng lại lên ngựa chiến để ngã xuống sa trường như một lời tuyên thệ không thể sống chung với sự suy đồi của đạo đức xã hội…Tuy vậy, đến cuối thế kỷ 20, một trong những dòng chủ đạo được tạo nên, nhất là ở lĩnh vực thi ca vẫn là những cây bút nhiều xung lực từ những năm tháng chống Mỹ cứu nước và âm hưởng chủ đạo của nền thơ vẫn do lực lượng ấy cầm trịch. Bởi thế, cho nên ba tập thơ đầu của Mai Quỳnh Nam Bước trượt - Các sự việc rời rạc- Phép thử thuật tư biện mang dấu ấn cả về mặt đề tài, phương thức thể hiện của phong trào thơ chống Mỹ cứu nước. Tôi thường nghĩ rằng: những cảm xúc thơ chân thành và nguyên sơ ban đầu thường làm nên một đời thi sĩ. Và Mai Quỳnh Nam đã lên đường với thi ca là bắt nguồn từ dòng chảy dào dạt ấy chăng?

Bước trượt là dấu cộng của ký ức về chiến tranh. Làm những bài thơ về chiến tranh sau 20 năm im tiếng súng, những ám ảnh không nguôi suốt đời Mai Quỳnh Nam: Cỏ, Bệnh binh, Màu trắng, Tiếng chim bắt cô trói cột

Đó là cỏ trên bãi chiến trường,

Cỏ ngút ngát cỏ mừng tôi rối rít

tôi tơ non, cỏ biếc đang mầm

 

Bên công sự chỏng trơ mũ sắt

cỏ sậm đen theo vệt người nằm

Cỏ sống chết với người lính trẻ, cưu mang họ những lúc hiểm nghèo, “Đêm trinh sát máu loang áo cỏ”, Mai Quỳnh Nam “…cõng bạn rẽ làn đạn nổ” nhờ “ cỏ lên xanh che bạn, che tôi”, để từ đấy, người lính thấy “ trời cao thẳm bỗng rào rào tiếng gió”, “ chim kết đàn tha cỏ vụt lên

Đó là cái chết của người bệnh binh nằm cạnh Mai Quỳnh Nam giữa núi rừng phương Nam mênh mông mà khốc liệt, một cảnh như triệu cảnh người lính trận đã ra đi, những năm bom đạn giản đơn như thế đấy:

Người bệnh binh trút hơi thở cuối cùng

vào giữa lúc cơn giông ập xuống
 

Anh đi vội võng chưa kịp cuộn

võng anh nằm song song võng tôi
 

Đó là màu trắng chết chóc của chất độc hoá học hiện lên hình hài của một con người bé nhỏ chưa bao giờ nghe tiếng đạn nổ, bom rơi

Người đàn bà vật vã trên bàn đẻ

sau cơn đau kinh hoàng của người vượt bể,

chị nâng đỡ trên tay đứa bé

dị dạng hình người

không tiếng khóc

Cả thế kỷ 20, người Việt Nam phải trải qua bốn cuộc chiến tranh, thơ ca nào nói hết được những nỗi đau của sự hi sinh mất mát, và nói như thế nào cho đủ được đây? Ký ức về chiến tranh trải dài suốt các tập thơ của Mai Quỳnh Nam: Lính trinh sát, Ngoài bưng có gì? Nó là thế này đây, Cấp số nhân…dai dẳng bám vào thế giới tinh thần Mai Quỳnh Nam sau 30 năm anh rời quân ngũ.

Những câu hỏi viết về người lính trẻ: “ Những đồng hương Nghệ An, vừa gàn vừa gan”, “ Tiếng oang oang đầy đò sông Lam”. “ Và họ ai trúng bom ở binh trạm 15”, “Ai ngã gục dưới pháo bầy, pháo chụp” “ máu lênh loang trên Vàm cỏ đông”. Và ở binh trạm số 1 “Người đi trước vẫn chưa về trước”, “ người đi sau chẳng thấy về sau” .Và người đồng đội chỉ sống trong ký ức “ gương mặt anh thật hiền”, “ trên nấm mồ ở nghĩa địa Bình Xuyên”.

Thơ về chiến tranh của Mai Quỳnh Nam không chỉ là dấu ấn bảy năm đời lính của anh từ 1970 đến 1977, mà còn là một quãng dài của thời gian suy ngẫm về cuộc chiến, khi anh may mắn trở về. Nhờ đó, thơ Mai Quỳnh Nam góp một tiếng nói có trách nhiệm và đầy cảm khái về những ngày cả đất nước ta ra trận.

Sau chiến tranh là đến hoà bình. Cũng là lúc cảm xúc thơ đầu tiên của Mai Quỳnh Nam về một miền miên man tuyết phủ nước Nga, khi mà “ sông Matxcova ngập tràn tuyết trắng”. Ở đó, anh đã có một cái nhìn khác khi ví mình như là hạt tuyết trinh trắng, “ còn bao nhiêu buốt lạnh” “ ném trả về hư vinh” và sớm nhận ra “ chấp nhận mình như một số phận”, “ một lối nghĩ” “ một cách viết” cho văn chương. Vì thế, vì tự nhận một số phận gửi mình cho thi ca như thế, màu vàng và sự tĩnh lặng của mùa thu đã đưa người lính Mai Quỳnh Nam đến với tình yêu cuộc sống bằng một gam màu tưởng như phổ quát mà riêng có của xứ bạch dương trong sự cô đơn “trời mùa thu đắm đuối không yên

Mùa thu vàng hàng cây bạch dương

sông long lanh cỏ ướt mờ sương

nắng mỏng mảnh tan vào tĩnh lặng

chiều rực thắm những gam màu ấm sáng

Từ tập Biến thể khác, đúng như đầu đề của nó, Mai Quỳnh Nam bắt đầu rục rịch làm một điều gì đó không giống với những gì anh đã có khi tiếp thu truyền thống của phong trào thơ ca chống Mỹ cứu nước. Anh tâm sự: “Tôi đang mang những con chữ vào miền quên lãng”. Tâm trạng thơ đã mở đến những biên độ mới, những biên độ không có gì xa lạ, đã ẩn chứa từ trước đó, trong thơ anh. Đó là cảm thức về những nỗi đau của thân phận làm người. Chen lẫn những khúc tình ca “biển đục quá anh trong sao được”, là một nỗi buồn muôn thưở như ở trong cổ thi.

Em thêm một nỗi ưu phiền

tôi thêm một nỗi truân chuyên trong đời

tàn ngày một cánh hoa rơi

một đôi chim nhạn cuối trời biệt tăm

Sự rục rịch ấy thể hiện bắt đầu đi tìm một phương thức phản ánh hiện thực trước những biến động không lường của thời cuộc. Anh tự dằn vặt lương tâm mình ở “Xã hội học lúc 0 giờ” khi chú bé đánh giày đã ngủ, cô gái bán mình đã dứt cuộc tình, những ông chủ vừa tan tiệc rượu, giá vàng vừa tỉnh vừa say, người đàn bà không thấy vẻ khát thèm của người chủ chứa. Và “Các tác phẩm được giải” “tươi như món dưa muối xổi”, “những cây bút vàng sẵn sàng lên đài đăng quang”. Người nhặt rác nhặt những giải Oscar…, để tất cả bước vào cuộc cuối ngày.

Nắng trôi qua đã trọn một ngày

nắng đắng chát tóc người bạc trắng

Mai Quỳnh Nam mong muốn tìm một con đường khác cho thơ, khác với những gì anh đã viết ở ba tập thơ đầu. Mai Quỳnh Nam chuyển mạnh sang khuynh hướng lấy lý trí làm trọng điểm, coi trọng thơ nhấn vào ý tưởng xã hội sâu sắc và được thể hiện trong một thi pháp kiệm lời. Anh như một bông hoa đang thiền trên cát bỏng, dùng tư biện duy lý để thi ca phát hiện chân lý đời sống và những vùng sáng thẩm mỹ mà có người gọi là điểm ngời sáng trong thơ. Con đường đó chưa ai nói rằng nó dễ dàng và dễ đi, đôi khi chỉ mong được sự cảm thông của một người mà thôi… “Có một người”, “ít nhất, có một đời”, “những lúc buồn vui”, “nhẩm đọc” “vài câu thơ của tôi”. Mai Quỳnh Nam đi tận cùng đến thơ ngắn. Ngắn đến nỗi bài thơ chỉ một, hai, thậm chí ba câu là cùng. Như một sự phát hiện không cần diễn giải. Những khi ấy, anh đang thiền trăng với một bài thơ chỉ có một đôi dòng về tình yêu và triết lý nhân sinh.

Em là bóng trong nắng chiều trắng xoá

***

Em về để sợi tóc rơi

trăm năm một kiếp một thời tóc mây

***

Hoa hoài nghi

mang về hương quả đắng

***

Phiên chợ lặng im

tôi bán hai nghìn một tiếng chim

***

Cơn gió thoảng qua, rồi đi thôi

lạnh và mong manh như kiếp người

***

Từ tận cùng đau đớn

tôi dâng hiến


Một số tác phẩm đã xuất bản của Mai Quỳnh Nam.

Những năm cuối thế kỷ 20 và 24 năm đầu thế kỷ 21, khi mà thơ Haiku cực ngắn về số từ và dòng thơ nhập vào qua các bến cảng văn chương, nhiều người làm thơ thời chống Pháp như các ông Lê Đạt, Trần Dần…thời chống Mỹ như Hữu Thỉnh trong tập Ghi chú sau mây, cùng nhiều nhà thơ trẻ khác muốn đi đến những bài thơ cực ngắn như là một hướng tìm tòi. Thách thức lớn nhất của loại thơ này phải dựa trên một ý tưởng sâu sắc, một triết lý xung động làm điểm bừng sáng cho thơ. Mai Quỳnh Nam đi vào thơ cực ngắn theo hướng lấy Bertol Brecht làm phương châm. Ở đó, thơ là sự khắc khoải đến cùng cực của trí tuệ. Anh muốn tiếp nối sự giải thích tứ thơ Sợi dây thừng bị đứt của Bertol Brecht bằng một ý nghĩa khác, không chỉ là không nối lại nguyên lành được nữa, khi sợi dây bị đứt văng thành hai khúc.

Nửa kia tít tắp đâu rồi

chắc đã có người

nhặt về

và nối lại

Nhờ căn nền văn hoá rộng rãi, kết hợp với tư duy triết lý sâu sắc, thơ cực ngắn của Mai Quỳnh Nam để lại nhiều ý tưởng khó quên.

Có một cặp phạm trù tình yêu và cái chết mà dường như cái chết được nói đến nhiều hơn, ám ảnh trong thơ Mai Quỳnh Nam chừng 10 năm gần đây. Anh không ngại nói về nó theo hai chiều hư vô như định mệnh và giản đơn lẽ thường như đời một con người. Hư vô như: “không ai còn nhớ chúng ta”, “tất cả trắng xoá”, “một ngày nào đó”. Và ở chiều kia là sự giản đơn như đời sống con người vốn cô đơn để đi về chốn hương khói cô đơn.

Ngoài nghĩa trang hương khói quyện vào nhau

hương khói nối dài

người với người

không biết dựa vào ai

 Dường như để thực hiện sự cân bằng vốn có của giới tự nhiên và đối diện với sự chết là ánh nắng của tình yêu cuộc sống, lan toả trong các tập thơ Mai Quỳnh Nam. Thế giới nắng Mai Quỳnh Nam:

Em đi biền biệt chiều không tưởng

nắng xoãi tình hoang loang đất đai

***

Gió thổi siết chân trời sạt lở

nắng úa vàng tao tác bờ mây

***

Quăng tấm lưới ra

thâu tóm cả một vùng

kéo lên

chỉ thấy nắng trắng ngời mắt lưới

***

Rồi đến lúc nắng vẫn là nắng ấy mà xưa cũ như người.

Nắng vẫn nắng chẳng còn là nắng nữa

lòng đã buồn như mưa cổ xưa

Rồi nắng như đời sống của chúng ta, như thi ca ở cuộc đời này, cũng sẽ chỉ là nguôi ngoai hoài niệm của nhịp thời gian cứ đi mà không dừng lại.

Nắng đã nguôi ngoai trăng nhớ cuộc rằm

chiều cạn dần, thơ đến cõi xa xăm

Nhưng như để nhắc nhở người đời, Mai Quỳnh Nam đã trao cho nắng một sứ mệnh bất tử. Từ tiếng reo vui của người con gái trong nắng đẹp đầu ngày: “Một ngày nắng, bình thường như nắng”, “em reo lên trong nắng đầu ngày”, đến nỗi bàng hoàng ngây dại của nắng, của tình yêu cuộc sống:

Bao nhiêu nắng bàng hoàng ngây dại

bao nhiêu đêm khắc khoải mảnh trăng thề

Như thế thì chết làm sao được Mai Quỳnh Nam ơi?

Tôi đọc tập thơ Một phía mới in từ tháng 8 năm 2024, thấy có một nỗ lực của Mai Quỳnh Nam trong việc làm mới thơ mình. Bên cạnh tiếp tục dòng thơ cực ngắn, hai, ba câu không có tiêu đề, anh hướng tới chuyển hoá bút pháp thơ bốn câu, vốn là thế mạnh của anh từ những tập thơ trước.

Tôi đi trên con đường

mải miết về phía ấy

trong mờ mịt gió sương tôi bỗng thấy

mùa thu vỡ tan trong tiếng ngỗng trời

Mai Quỳnh Nam có nhiều bài thơ bốn câu không còn nguyên nghĩa của thể thơ tứ tuyệt nữa. Thơ tứ tuyệt truyền thống thường chỉn chu câu chữ, đôi khi bằng chằn chặn ở ý, ở từ. Mai Quỳnh Nam tạo được sự tự do, bứt phá trong cảm hứng thi ca và phóng túng trong thi pháp thể hiện, giống như mùa thu êm ả bỗng “vỡ tan trong tiếng ngỗng trời”. Cũng giống như bài tứ tuyệt ngậm ngùi khi: “Hoa tím bên đường tím chẳng thuộc về anh”, hay khi là: “trời vắng lặng màu mây năm ngoái”,  xa xôi mà như nán lại chút sắc màu phôi pha không rõ của thời gian.

Chưa ai làm thơ lặng lẽ như Mai Quỳnh Nam. Lòng trắc ẩn đã đẩy tôi nhìn ngắm một bông hoa lặng lẽ thiền trên cát bỏng. Cát bỏng của sự đời và thách thức thi ca. Tôi đọc thơ anh cũng là cách tôi thiền giữa bao nhiêu dâu bể của hôm qua và hôm nay.

Tháng 10 năm 2024,
K.B.N

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm
Những chấn thương nội tâm trong “Mã độc báo thù”
“Mã độc báo thù” là tiểu thuyết mới nhất của nhà văn Nguyễn Văn Học, vừa được NXB Công an nhân dân phát hành. Đây là một trong vài tiểu thuyết đầu tiên viết về đề tài tội phạm công nghệ cao ở Việt Nam. Tuy nhiên, nhà văn không chỉ nói về tội phạm, mà còn xoáy sâu về những tổn thương của con người trong thời đại số.
Xem thêm
Huệ Triệu, một nhà giáo, nhà thơ
Cả hai tư cách, nhà giáo và thi nhân, Huệ Triệu là một gương mặt sáng giá.
Xem thêm
Chúng ta có thực sự tự do trong chính tác phẩm của mình?
Văn học, cũng như các lĩnh vực khác, theo tôi đều có những dòng chảy nối tiếp âm thầm, tạo nên nhiều sự giao thoa, đan cài giữa cũ và mới, quen thuộc và khác lạ
Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm