TIN TỨC

Một bông hoa lặng lẽ thiền trên cát bỏng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-01 14:25:15
mail facebook google pos stwis
882 lượt xem

KHUẤT BÌNH NGUYÊN

Năm 1995. Khi đã bước vào tuổi 43, Mai Quỳnh Nam cho in tập thơ đầu tay Bước trượt. Sao ở cái tuổi ấy còn bước trượt được nhỉ? Và lại là bước đầu tiên của thơ ca? Thế là thấm thoắt một đời thơ. Đến năm 2024. Ngót nghét 30 năm rồi. 7 tập thơ ra đời.

Sau Bước trượtCác sự việc rời rạc. 2002. Phép thử thuật tư biện 2007. Biến thể khác. 2012. Không thiên vị.2014. Không tì vết. 2020. Một phía.2024. Giữa thời buổi người ta không mặn mà gì với thơ nữa, các mỹ nhân đa tình nhất phần nhiều liếc mắt vào cửa ngân hàng và trong khi người thi nhân ấy có thể làm nhiều công việc khác phục vụ cho sự tiêu dùng lại không làm mà nhất quyết đi làm thơ. Bởi thế, tôi trân trọng những gì mà cả một đời người đã gắn bó và lặn lội với Thơ, tưởng như chẳng bao giờ dứt được. Chao ôi! Cái nghiệp chướng văn chương là vậy đấy.

Vào thời điểm Mai Quỳnh Nam bước lên diễn đàn văn chương, đã xuất hiện những người ra đi từ Ngôi nhà tuổi 17 để ngẫm nghĩ về Sự mất ngủ của lửa, những người Củi lửa cho Thời đại thanh xuân. Và những viên tướng sống chết trên bãi chiến trường suốt thế kỷ 20, người ta đã cho viên tướng ấy về hưu để ngẫm nghĩ sự đời trong trang sách mà buộc lòng lại lên ngựa chiến để ngã xuống sa trường như một lời tuyên thệ không thể sống chung với sự suy đồi của đạo đức xã hội…Tuy vậy, đến cuối thế kỷ 20, một trong những dòng chủ đạo được tạo nên, nhất là ở lĩnh vực thi ca vẫn là những cây bút nhiều xung lực từ những năm tháng chống Mỹ cứu nước và âm hưởng chủ đạo của nền thơ vẫn do lực lượng ấy cầm trịch. Bởi thế, cho nên ba tập thơ đầu của Mai Quỳnh Nam Bước trượt - Các sự việc rời rạc- Phép thử thuật tư biện mang dấu ấn cả về mặt đề tài, phương thức thể hiện của phong trào thơ chống Mỹ cứu nước. Tôi thường nghĩ rằng: những cảm xúc thơ chân thành và nguyên sơ ban đầu thường làm nên một đời thi sĩ. Và Mai Quỳnh Nam đã lên đường với thi ca là bắt nguồn từ dòng chảy dào dạt ấy chăng?

Bước trượt là dấu cộng của ký ức về chiến tranh. Làm những bài thơ về chiến tranh sau 20 năm im tiếng súng, những ám ảnh không nguôi suốt đời Mai Quỳnh Nam: Cỏ, Bệnh binh, Màu trắng, Tiếng chim bắt cô trói cột

Đó là cỏ trên bãi chiến trường,

Cỏ ngút ngát cỏ mừng tôi rối rít

tôi tơ non, cỏ biếc đang mầm

 

Bên công sự chỏng trơ mũ sắt

cỏ sậm đen theo vệt người nằm

Cỏ sống chết với người lính trẻ, cưu mang họ những lúc hiểm nghèo, “Đêm trinh sát máu loang áo cỏ”, Mai Quỳnh Nam “…cõng bạn rẽ làn đạn nổ” nhờ “ cỏ lên xanh che bạn, che tôi”, để từ đấy, người lính thấy “ trời cao thẳm bỗng rào rào tiếng gió”, “ chim kết đàn tha cỏ vụt lên

Đó là cái chết của người bệnh binh nằm cạnh Mai Quỳnh Nam giữa núi rừng phương Nam mênh mông mà khốc liệt, một cảnh như triệu cảnh người lính trận đã ra đi, những năm bom đạn giản đơn như thế đấy:

Người bệnh binh trút hơi thở cuối cùng

vào giữa lúc cơn giông ập xuống
 

Anh đi vội võng chưa kịp cuộn

võng anh nằm song song võng tôi
 

Đó là màu trắng chết chóc của chất độc hoá học hiện lên hình hài của một con người bé nhỏ chưa bao giờ nghe tiếng đạn nổ, bom rơi

Người đàn bà vật vã trên bàn đẻ

sau cơn đau kinh hoàng của người vượt bể,

chị nâng đỡ trên tay đứa bé

dị dạng hình người

không tiếng khóc

Cả thế kỷ 20, người Việt Nam phải trải qua bốn cuộc chiến tranh, thơ ca nào nói hết được những nỗi đau của sự hi sinh mất mát, và nói như thế nào cho đủ được đây? Ký ức về chiến tranh trải dài suốt các tập thơ của Mai Quỳnh Nam: Lính trinh sát, Ngoài bưng có gì? Nó là thế này đây, Cấp số nhân…dai dẳng bám vào thế giới tinh thần Mai Quỳnh Nam sau 30 năm anh rời quân ngũ.

Những câu hỏi viết về người lính trẻ: “ Những đồng hương Nghệ An, vừa gàn vừa gan”, “ Tiếng oang oang đầy đò sông Lam”. “ Và họ ai trúng bom ở binh trạm 15”, “Ai ngã gục dưới pháo bầy, pháo chụp” “ máu lênh loang trên Vàm cỏ đông”. Và ở binh trạm số 1 “Người đi trước vẫn chưa về trước”, “ người đi sau chẳng thấy về sau” .Và người đồng đội chỉ sống trong ký ức “ gương mặt anh thật hiền”, “ trên nấm mồ ở nghĩa địa Bình Xuyên”.

Thơ về chiến tranh của Mai Quỳnh Nam không chỉ là dấu ấn bảy năm đời lính của anh từ 1970 đến 1977, mà còn là một quãng dài của thời gian suy ngẫm về cuộc chiến, khi anh may mắn trở về. Nhờ đó, thơ Mai Quỳnh Nam góp một tiếng nói có trách nhiệm và đầy cảm khái về những ngày cả đất nước ta ra trận.

Sau chiến tranh là đến hoà bình. Cũng là lúc cảm xúc thơ đầu tiên của Mai Quỳnh Nam về một miền miên man tuyết phủ nước Nga, khi mà “ sông Matxcova ngập tràn tuyết trắng”. Ở đó, anh đã có một cái nhìn khác khi ví mình như là hạt tuyết trinh trắng, “ còn bao nhiêu buốt lạnh” “ ném trả về hư vinh” và sớm nhận ra “ chấp nhận mình như một số phận”, “ một lối nghĩ” “ một cách viết” cho văn chương. Vì thế, vì tự nhận một số phận gửi mình cho thi ca như thế, màu vàng và sự tĩnh lặng của mùa thu đã đưa người lính Mai Quỳnh Nam đến với tình yêu cuộc sống bằng một gam màu tưởng như phổ quát mà riêng có của xứ bạch dương trong sự cô đơn “trời mùa thu đắm đuối không yên

Mùa thu vàng hàng cây bạch dương

sông long lanh cỏ ướt mờ sương

nắng mỏng mảnh tan vào tĩnh lặng

chiều rực thắm những gam màu ấm sáng

Từ tập Biến thể khác, đúng như đầu đề của nó, Mai Quỳnh Nam bắt đầu rục rịch làm một điều gì đó không giống với những gì anh đã có khi tiếp thu truyền thống của phong trào thơ ca chống Mỹ cứu nước. Anh tâm sự: “Tôi đang mang những con chữ vào miền quên lãng”. Tâm trạng thơ đã mở đến những biên độ mới, những biên độ không có gì xa lạ, đã ẩn chứa từ trước đó, trong thơ anh. Đó là cảm thức về những nỗi đau của thân phận làm người. Chen lẫn những khúc tình ca “biển đục quá anh trong sao được”, là một nỗi buồn muôn thưở như ở trong cổ thi.

Em thêm một nỗi ưu phiền

tôi thêm một nỗi truân chuyên trong đời

tàn ngày một cánh hoa rơi

một đôi chim nhạn cuối trời biệt tăm

Sự rục rịch ấy thể hiện bắt đầu đi tìm một phương thức phản ánh hiện thực trước những biến động không lường của thời cuộc. Anh tự dằn vặt lương tâm mình ở “Xã hội học lúc 0 giờ” khi chú bé đánh giày đã ngủ, cô gái bán mình đã dứt cuộc tình, những ông chủ vừa tan tiệc rượu, giá vàng vừa tỉnh vừa say, người đàn bà không thấy vẻ khát thèm của người chủ chứa. Và “Các tác phẩm được giải” “tươi như món dưa muối xổi”, “những cây bút vàng sẵn sàng lên đài đăng quang”. Người nhặt rác nhặt những giải Oscar…, để tất cả bước vào cuộc cuối ngày.

Nắng trôi qua đã trọn một ngày

nắng đắng chát tóc người bạc trắng

Mai Quỳnh Nam mong muốn tìm một con đường khác cho thơ, khác với những gì anh đã viết ở ba tập thơ đầu. Mai Quỳnh Nam chuyển mạnh sang khuynh hướng lấy lý trí làm trọng điểm, coi trọng thơ nhấn vào ý tưởng xã hội sâu sắc và được thể hiện trong một thi pháp kiệm lời. Anh như một bông hoa đang thiền trên cát bỏng, dùng tư biện duy lý để thi ca phát hiện chân lý đời sống và những vùng sáng thẩm mỹ mà có người gọi là điểm ngời sáng trong thơ. Con đường đó chưa ai nói rằng nó dễ dàng và dễ đi, đôi khi chỉ mong được sự cảm thông của một người mà thôi… “Có một người”, “ít nhất, có một đời”, “những lúc buồn vui”, “nhẩm đọc” “vài câu thơ của tôi”. Mai Quỳnh Nam đi tận cùng đến thơ ngắn. Ngắn đến nỗi bài thơ chỉ một, hai, thậm chí ba câu là cùng. Như một sự phát hiện không cần diễn giải. Những khi ấy, anh đang thiền trăng với một bài thơ chỉ có một đôi dòng về tình yêu và triết lý nhân sinh.

Em là bóng trong nắng chiều trắng xoá

***

Em về để sợi tóc rơi

trăm năm một kiếp một thời tóc mây

***

Hoa hoài nghi

mang về hương quả đắng

***

Phiên chợ lặng im

tôi bán hai nghìn một tiếng chim

***

Cơn gió thoảng qua, rồi đi thôi

lạnh và mong manh như kiếp người

***

Từ tận cùng đau đớn

tôi dâng hiến


Một số tác phẩm đã xuất bản của Mai Quỳnh Nam.

Những năm cuối thế kỷ 20 và 24 năm đầu thế kỷ 21, khi mà thơ Haiku cực ngắn về số từ và dòng thơ nhập vào qua các bến cảng văn chương, nhiều người làm thơ thời chống Pháp như các ông Lê Đạt, Trần Dần…thời chống Mỹ như Hữu Thỉnh trong tập Ghi chú sau mây, cùng nhiều nhà thơ trẻ khác muốn đi đến những bài thơ cực ngắn như là một hướng tìm tòi. Thách thức lớn nhất của loại thơ này phải dựa trên một ý tưởng sâu sắc, một triết lý xung động làm điểm bừng sáng cho thơ. Mai Quỳnh Nam đi vào thơ cực ngắn theo hướng lấy Bertol Brecht làm phương châm. Ở đó, thơ là sự khắc khoải đến cùng cực của trí tuệ. Anh muốn tiếp nối sự giải thích tứ thơ Sợi dây thừng bị đứt của Bertol Brecht bằng một ý nghĩa khác, không chỉ là không nối lại nguyên lành được nữa, khi sợi dây bị đứt văng thành hai khúc.

Nửa kia tít tắp đâu rồi

chắc đã có người

nhặt về

và nối lại

Nhờ căn nền văn hoá rộng rãi, kết hợp với tư duy triết lý sâu sắc, thơ cực ngắn của Mai Quỳnh Nam để lại nhiều ý tưởng khó quên.

Có một cặp phạm trù tình yêu và cái chết mà dường như cái chết được nói đến nhiều hơn, ám ảnh trong thơ Mai Quỳnh Nam chừng 10 năm gần đây. Anh không ngại nói về nó theo hai chiều hư vô như định mệnh và giản đơn lẽ thường như đời một con người. Hư vô như: “không ai còn nhớ chúng ta”, “tất cả trắng xoá”, “một ngày nào đó”. Và ở chiều kia là sự giản đơn như đời sống con người vốn cô đơn để đi về chốn hương khói cô đơn.

Ngoài nghĩa trang hương khói quyện vào nhau

hương khói nối dài

người với người

không biết dựa vào ai

 Dường như để thực hiện sự cân bằng vốn có của giới tự nhiên và đối diện với sự chết là ánh nắng của tình yêu cuộc sống, lan toả trong các tập thơ Mai Quỳnh Nam. Thế giới nắng Mai Quỳnh Nam:

Em đi biền biệt chiều không tưởng

nắng xoãi tình hoang loang đất đai

***

Gió thổi siết chân trời sạt lở

nắng úa vàng tao tác bờ mây

***

Quăng tấm lưới ra

thâu tóm cả một vùng

kéo lên

chỉ thấy nắng trắng ngời mắt lưới

***

Rồi đến lúc nắng vẫn là nắng ấy mà xưa cũ như người.

Nắng vẫn nắng chẳng còn là nắng nữa

lòng đã buồn như mưa cổ xưa

Rồi nắng như đời sống của chúng ta, như thi ca ở cuộc đời này, cũng sẽ chỉ là nguôi ngoai hoài niệm của nhịp thời gian cứ đi mà không dừng lại.

Nắng đã nguôi ngoai trăng nhớ cuộc rằm

chiều cạn dần, thơ đến cõi xa xăm

Nhưng như để nhắc nhở người đời, Mai Quỳnh Nam đã trao cho nắng một sứ mệnh bất tử. Từ tiếng reo vui của người con gái trong nắng đẹp đầu ngày: “Một ngày nắng, bình thường như nắng”, “em reo lên trong nắng đầu ngày”, đến nỗi bàng hoàng ngây dại của nắng, của tình yêu cuộc sống:

Bao nhiêu nắng bàng hoàng ngây dại

bao nhiêu đêm khắc khoải mảnh trăng thề

Như thế thì chết làm sao được Mai Quỳnh Nam ơi?

Tôi đọc tập thơ Một phía mới in từ tháng 8 năm 2024, thấy có một nỗ lực của Mai Quỳnh Nam trong việc làm mới thơ mình. Bên cạnh tiếp tục dòng thơ cực ngắn, hai, ba câu không có tiêu đề, anh hướng tới chuyển hoá bút pháp thơ bốn câu, vốn là thế mạnh của anh từ những tập thơ trước.

Tôi đi trên con đường

mải miết về phía ấy

trong mờ mịt gió sương tôi bỗng thấy

mùa thu vỡ tan trong tiếng ngỗng trời

Mai Quỳnh Nam có nhiều bài thơ bốn câu không còn nguyên nghĩa của thể thơ tứ tuyệt nữa. Thơ tứ tuyệt truyền thống thường chỉn chu câu chữ, đôi khi bằng chằn chặn ở ý, ở từ. Mai Quỳnh Nam tạo được sự tự do, bứt phá trong cảm hứng thi ca và phóng túng trong thi pháp thể hiện, giống như mùa thu êm ả bỗng “vỡ tan trong tiếng ngỗng trời”. Cũng giống như bài tứ tuyệt ngậm ngùi khi: “Hoa tím bên đường tím chẳng thuộc về anh”, hay khi là: “trời vắng lặng màu mây năm ngoái”,  xa xôi mà như nán lại chút sắc màu phôi pha không rõ của thời gian.

Chưa ai làm thơ lặng lẽ như Mai Quỳnh Nam. Lòng trắc ẩn đã đẩy tôi nhìn ngắm một bông hoa lặng lẽ thiền trên cát bỏng. Cát bỏng của sự đời và thách thức thi ca. Tôi đọc thơ anh cũng là cách tôi thiền giữa bao nhiêu dâu bể của hôm qua và hôm nay.

Tháng 10 năm 2024,
K.B.N

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ là linh dược
Tôi nhận được tập thơ Cả những ngày đã quên của tác giả Trần thị Thuỳ Vy, sinh năm 1975, quê Duy Xuyên Quảng Nam. Tập thơ dày 115 trang, khổ 18x18, bìa cứng giấy đẹp, trình bày rất trang nhã, do Nhà XB Hội Nhà Văn ấn hành tháng 10 năm 2024. Cầm tập thơ lên tôi đọc đi đọc lại đôi lần, thấy hay hay, cái dễ nhận ra là tâm tư tình cảm của tác giả đã gởi trọn vào đây! Về quê hương về suy tư, về cuộc sống đã được tác giả biến hoá thành những con chữ có cánh bay xa, biết nói, biết giao tiếp với mọi người. Trong đó, sự cảm nhận rất mới với Thơ.
Xem thêm
Sắc thái Thời gian và cảm xúc Hoài niệm trong tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng
Tập thơ Khi tâm hồn đầy nắng của Biện Tiến Hùng không chỉ là một tuyển tập gồm 107 bài thơ, mà còn là một tấm gương phản chiếu sinh động thế giới nội tâm phong phú và sâu lắng của thi sĩ. Bằng một giọng điệu trữ tình, chân thành và đượm màu ký ức, Biện Tiến Hùng đã khéo léo kiến tạo một không gian nghệ thuật nơi thiên nhiên, thời gian và con người hòa quyện vào nhau, tạo nên một bản giao hưởng cảm xúc đa tầng, một dòng chảy liên hồi của cảm xúc. Sức hấp dẫn của tập thơ nằm ở cách tác giả nhân hóa thời gian và biến hoài niệm thành chất liệu thi ca, qua đó không chỉ tái hiện một khung cảnh đã qua mà còn khơi gợi những nỗi niềm chung của độc giả về sự phù du của đời sống của kiếp người trong cõi nhân sinh.
Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm