TIN TỨC

Một bông hoa lặng lẽ thiền trên cát bỏng

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-01-01 14:25:15
mail facebook google pos stwis
742 lượt xem

KHUẤT BÌNH NGUYÊN

Năm 1995. Khi đã bước vào tuổi 43, Mai Quỳnh Nam cho in tập thơ đầu tay Bước trượt. Sao ở cái tuổi ấy còn bước trượt được nhỉ? Và lại là bước đầu tiên của thơ ca? Thế là thấm thoắt một đời thơ. Đến năm 2024. Ngót nghét 30 năm rồi. 7 tập thơ ra đời.

Sau Bước trượtCác sự việc rời rạc. 2002. Phép thử thuật tư biện 2007. Biến thể khác. 2012. Không thiên vị.2014. Không tì vết. 2020. Một phía.2024. Giữa thời buổi người ta không mặn mà gì với thơ nữa, các mỹ nhân đa tình nhất phần nhiều liếc mắt vào cửa ngân hàng và trong khi người thi nhân ấy có thể làm nhiều công việc khác phục vụ cho sự tiêu dùng lại không làm mà nhất quyết đi làm thơ. Bởi thế, tôi trân trọng những gì mà cả một đời người đã gắn bó và lặn lội với Thơ, tưởng như chẳng bao giờ dứt được. Chao ôi! Cái nghiệp chướng văn chương là vậy đấy.

Vào thời điểm Mai Quỳnh Nam bước lên diễn đàn văn chương, đã xuất hiện những người ra đi từ Ngôi nhà tuổi 17 để ngẫm nghĩ về Sự mất ngủ của lửa, những người Củi lửa cho Thời đại thanh xuân. Và những viên tướng sống chết trên bãi chiến trường suốt thế kỷ 20, người ta đã cho viên tướng ấy về hưu để ngẫm nghĩ sự đời trong trang sách mà buộc lòng lại lên ngựa chiến để ngã xuống sa trường như một lời tuyên thệ không thể sống chung với sự suy đồi của đạo đức xã hội…Tuy vậy, đến cuối thế kỷ 20, một trong những dòng chủ đạo được tạo nên, nhất là ở lĩnh vực thi ca vẫn là những cây bút nhiều xung lực từ những năm tháng chống Mỹ cứu nước và âm hưởng chủ đạo của nền thơ vẫn do lực lượng ấy cầm trịch. Bởi thế, cho nên ba tập thơ đầu của Mai Quỳnh Nam Bước trượt - Các sự việc rời rạc- Phép thử thuật tư biện mang dấu ấn cả về mặt đề tài, phương thức thể hiện của phong trào thơ chống Mỹ cứu nước. Tôi thường nghĩ rằng: những cảm xúc thơ chân thành và nguyên sơ ban đầu thường làm nên một đời thi sĩ. Và Mai Quỳnh Nam đã lên đường với thi ca là bắt nguồn từ dòng chảy dào dạt ấy chăng?

Bước trượt là dấu cộng của ký ức về chiến tranh. Làm những bài thơ về chiến tranh sau 20 năm im tiếng súng, những ám ảnh không nguôi suốt đời Mai Quỳnh Nam: Cỏ, Bệnh binh, Màu trắng, Tiếng chim bắt cô trói cột

Đó là cỏ trên bãi chiến trường,

Cỏ ngút ngát cỏ mừng tôi rối rít

tôi tơ non, cỏ biếc đang mầm

 

Bên công sự chỏng trơ mũ sắt

cỏ sậm đen theo vệt người nằm

Cỏ sống chết với người lính trẻ, cưu mang họ những lúc hiểm nghèo, “Đêm trinh sát máu loang áo cỏ”, Mai Quỳnh Nam “…cõng bạn rẽ làn đạn nổ” nhờ “ cỏ lên xanh che bạn, che tôi”, để từ đấy, người lính thấy “ trời cao thẳm bỗng rào rào tiếng gió”, “ chim kết đàn tha cỏ vụt lên

Đó là cái chết của người bệnh binh nằm cạnh Mai Quỳnh Nam giữa núi rừng phương Nam mênh mông mà khốc liệt, một cảnh như triệu cảnh người lính trận đã ra đi, những năm bom đạn giản đơn như thế đấy:

Người bệnh binh trút hơi thở cuối cùng

vào giữa lúc cơn giông ập xuống
 

Anh đi vội võng chưa kịp cuộn

võng anh nằm song song võng tôi
 

Đó là màu trắng chết chóc của chất độc hoá học hiện lên hình hài của một con người bé nhỏ chưa bao giờ nghe tiếng đạn nổ, bom rơi

Người đàn bà vật vã trên bàn đẻ

sau cơn đau kinh hoàng của người vượt bể,

chị nâng đỡ trên tay đứa bé

dị dạng hình người

không tiếng khóc

Cả thế kỷ 20, người Việt Nam phải trải qua bốn cuộc chiến tranh, thơ ca nào nói hết được những nỗi đau của sự hi sinh mất mát, và nói như thế nào cho đủ được đây? Ký ức về chiến tranh trải dài suốt các tập thơ của Mai Quỳnh Nam: Lính trinh sát, Ngoài bưng có gì? Nó là thế này đây, Cấp số nhân…dai dẳng bám vào thế giới tinh thần Mai Quỳnh Nam sau 30 năm anh rời quân ngũ.

Những câu hỏi viết về người lính trẻ: “ Những đồng hương Nghệ An, vừa gàn vừa gan”, “ Tiếng oang oang đầy đò sông Lam”. “ Và họ ai trúng bom ở binh trạm 15”, “Ai ngã gục dưới pháo bầy, pháo chụp” “ máu lênh loang trên Vàm cỏ đông”. Và ở binh trạm số 1 “Người đi trước vẫn chưa về trước”, “ người đi sau chẳng thấy về sau” .Và người đồng đội chỉ sống trong ký ức “ gương mặt anh thật hiền”, “ trên nấm mồ ở nghĩa địa Bình Xuyên”.

Thơ về chiến tranh của Mai Quỳnh Nam không chỉ là dấu ấn bảy năm đời lính của anh từ 1970 đến 1977, mà còn là một quãng dài của thời gian suy ngẫm về cuộc chiến, khi anh may mắn trở về. Nhờ đó, thơ Mai Quỳnh Nam góp một tiếng nói có trách nhiệm và đầy cảm khái về những ngày cả đất nước ta ra trận.

Sau chiến tranh là đến hoà bình. Cũng là lúc cảm xúc thơ đầu tiên của Mai Quỳnh Nam về một miền miên man tuyết phủ nước Nga, khi mà “ sông Matxcova ngập tràn tuyết trắng”. Ở đó, anh đã có một cái nhìn khác khi ví mình như là hạt tuyết trinh trắng, “ còn bao nhiêu buốt lạnh” “ ném trả về hư vinh” và sớm nhận ra “ chấp nhận mình như một số phận”, “ một lối nghĩ” “ một cách viết” cho văn chương. Vì thế, vì tự nhận một số phận gửi mình cho thi ca như thế, màu vàng và sự tĩnh lặng của mùa thu đã đưa người lính Mai Quỳnh Nam đến với tình yêu cuộc sống bằng một gam màu tưởng như phổ quát mà riêng có của xứ bạch dương trong sự cô đơn “trời mùa thu đắm đuối không yên

Mùa thu vàng hàng cây bạch dương

sông long lanh cỏ ướt mờ sương

nắng mỏng mảnh tan vào tĩnh lặng

chiều rực thắm những gam màu ấm sáng

Từ tập Biến thể khác, đúng như đầu đề của nó, Mai Quỳnh Nam bắt đầu rục rịch làm một điều gì đó không giống với những gì anh đã có khi tiếp thu truyền thống của phong trào thơ ca chống Mỹ cứu nước. Anh tâm sự: “Tôi đang mang những con chữ vào miền quên lãng”. Tâm trạng thơ đã mở đến những biên độ mới, những biên độ không có gì xa lạ, đã ẩn chứa từ trước đó, trong thơ anh. Đó là cảm thức về những nỗi đau của thân phận làm người. Chen lẫn những khúc tình ca “biển đục quá anh trong sao được”, là một nỗi buồn muôn thưở như ở trong cổ thi.

Em thêm một nỗi ưu phiền

tôi thêm một nỗi truân chuyên trong đời

tàn ngày một cánh hoa rơi

một đôi chim nhạn cuối trời biệt tăm

Sự rục rịch ấy thể hiện bắt đầu đi tìm một phương thức phản ánh hiện thực trước những biến động không lường của thời cuộc. Anh tự dằn vặt lương tâm mình ở “Xã hội học lúc 0 giờ” khi chú bé đánh giày đã ngủ, cô gái bán mình đã dứt cuộc tình, những ông chủ vừa tan tiệc rượu, giá vàng vừa tỉnh vừa say, người đàn bà không thấy vẻ khát thèm của người chủ chứa. Và “Các tác phẩm được giải” “tươi như món dưa muối xổi”, “những cây bút vàng sẵn sàng lên đài đăng quang”. Người nhặt rác nhặt những giải Oscar…, để tất cả bước vào cuộc cuối ngày.

Nắng trôi qua đã trọn một ngày

nắng đắng chát tóc người bạc trắng

Mai Quỳnh Nam mong muốn tìm một con đường khác cho thơ, khác với những gì anh đã viết ở ba tập thơ đầu. Mai Quỳnh Nam chuyển mạnh sang khuynh hướng lấy lý trí làm trọng điểm, coi trọng thơ nhấn vào ý tưởng xã hội sâu sắc và được thể hiện trong một thi pháp kiệm lời. Anh như một bông hoa đang thiền trên cát bỏng, dùng tư biện duy lý để thi ca phát hiện chân lý đời sống và những vùng sáng thẩm mỹ mà có người gọi là điểm ngời sáng trong thơ. Con đường đó chưa ai nói rằng nó dễ dàng và dễ đi, đôi khi chỉ mong được sự cảm thông của một người mà thôi… “Có một người”, “ít nhất, có một đời”, “những lúc buồn vui”, “nhẩm đọc” “vài câu thơ của tôi”. Mai Quỳnh Nam đi tận cùng đến thơ ngắn. Ngắn đến nỗi bài thơ chỉ một, hai, thậm chí ba câu là cùng. Như một sự phát hiện không cần diễn giải. Những khi ấy, anh đang thiền trăng với một bài thơ chỉ có một đôi dòng về tình yêu và triết lý nhân sinh.

Em là bóng trong nắng chiều trắng xoá

***

Em về để sợi tóc rơi

trăm năm một kiếp một thời tóc mây

***

Hoa hoài nghi

mang về hương quả đắng

***

Phiên chợ lặng im

tôi bán hai nghìn một tiếng chim

***

Cơn gió thoảng qua, rồi đi thôi

lạnh và mong manh như kiếp người

***

Từ tận cùng đau đớn

tôi dâng hiến


Một số tác phẩm đã xuất bản của Mai Quỳnh Nam.

Những năm cuối thế kỷ 20 và 24 năm đầu thế kỷ 21, khi mà thơ Haiku cực ngắn về số từ và dòng thơ nhập vào qua các bến cảng văn chương, nhiều người làm thơ thời chống Pháp như các ông Lê Đạt, Trần Dần…thời chống Mỹ như Hữu Thỉnh trong tập Ghi chú sau mây, cùng nhiều nhà thơ trẻ khác muốn đi đến những bài thơ cực ngắn như là một hướng tìm tòi. Thách thức lớn nhất của loại thơ này phải dựa trên một ý tưởng sâu sắc, một triết lý xung động làm điểm bừng sáng cho thơ. Mai Quỳnh Nam đi vào thơ cực ngắn theo hướng lấy Bertol Brecht làm phương châm. Ở đó, thơ là sự khắc khoải đến cùng cực của trí tuệ. Anh muốn tiếp nối sự giải thích tứ thơ Sợi dây thừng bị đứt của Bertol Brecht bằng một ý nghĩa khác, không chỉ là không nối lại nguyên lành được nữa, khi sợi dây bị đứt văng thành hai khúc.

Nửa kia tít tắp đâu rồi

chắc đã có người

nhặt về

và nối lại

Nhờ căn nền văn hoá rộng rãi, kết hợp với tư duy triết lý sâu sắc, thơ cực ngắn của Mai Quỳnh Nam để lại nhiều ý tưởng khó quên.

Có một cặp phạm trù tình yêu và cái chết mà dường như cái chết được nói đến nhiều hơn, ám ảnh trong thơ Mai Quỳnh Nam chừng 10 năm gần đây. Anh không ngại nói về nó theo hai chiều hư vô như định mệnh và giản đơn lẽ thường như đời một con người. Hư vô như: “không ai còn nhớ chúng ta”, “tất cả trắng xoá”, “một ngày nào đó”. Và ở chiều kia là sự giản đơn như đời sống con người vốn cô đơn để đi về chốn hương khói cô đơn.

Ngoài nghĩa trang hương khói quyện vào nhau

hương khói nối dài

người với người

không biết dựa vào ai

 Dường như để thực hiện sự cân bằng vốn có của giới tự nhiên và đối diện với sự chết là ánh nắng của tình yêu cuộc sống, lan toả trong các tập thơ Mai Quỳnh Nam. Thế giới nắng Mai Quỳnh Nam:

Em đi biền biệt chiều không tưởng

nắng xoãi tình hoang loang đất đai

***

Gió thổi siết chân trời sạt lở

nắng úa vàng tao tác bờ mây

***

Quăng tấm lưới ra

thâu tóm cả một vùng

kéo lên

chỉ thấy nắng trắng ngời mắt lưới

***

Rồi đến lúc nắng vẫn là nắng ấy mà xưa cũ như người.

Nắng vẫn nắng chẳng còn là nắng nữa

lòng đã buồn như mưa cổ xưa

Rồi nắng như đời sống của chúng ta, như thi ca ở cuộc đời này, cũng sẽ chỉ là nguôi ngoai hoài niệm của nhịp thời gian cứ đi mà không dừng lại.

Nắng đã nguôi ngoai trăng nhớ cuộc rằm

chiều cạn dần, thơ đến cõi xa xăm

Nhưng như để nhắc nhở người đời, Mai Quỳnh Nam đã trao cho nắng một sứ mệnh bất tử. Từ tiếng reo vui của người con gái trong nắng đẹp đầu ngày: “Một ngày nắng, bình thường như nắng”, “em reo lên trong nắng đầu ngày”, đến nỗi bàng hoàng ngây dại của nắng, của tình yêu cuộc sống:

Bao nhiêu nắng bàng hoàng ngây dại

bao nhiêu đêm khắc khoải mảnh trăng thề

Như thế thì chết làm sao được Mai Quỳnh Nam ơi?

Tôi đọc tập thơ Một phía mới in từ tháng 8 năm 2024, thấy có một nỗ lực của Mai Quỳnh Nam trong việc làm mới thơ mình. Bên cạnh tiếp tục dòng thơ cực ngắn, hai, ba câu không có tiêu đề, anh hướng tới chuyển hoá bút pháp thơ bốn câu, vốn là thế mạnh của anh từ những tập thơ trước.

Tôi đi trên con đường

mải miết về phía ấy

trong mờ mịt gió sương tôi bỗng thấy

mùa thu vỡ tan trong tiếng ngỗng trời

Mai Quỳnh Nam có nhiều bài thơ bốn câu không còn nguyên nghĩa của thể thơ tứ tuyệt nữa. Thơ tứ tuyệt truyền thống thường chỉn chu câu chữ, đôi khi bằng chằn chặn ở ý, ở từ. Mai Quỳnh Nam tạo được sự tự do, bứt phá trong cảm hứng thi ca và phóng túng trong thi pháp thể hiện, giống như mùa thu êm ả bỗng “vỡ tan trong tiếng ngỗng trời”. Cũng giống như bài tứ tuyệt ngậm ngùi khi: “Hoa tím bên đường tím chẳng thuộc về anh”, hay khi là: “trời vắng lặng màu mây năm ngoái”,  xa xôi mà như nán lại chút sắc màu phôi pha không rõ của thời gian.

Chưa ai làm thơ lặng lẽ như Mai Quỳnh Nam. Lòng trắc ẩn đã đẩy tôi nhìn ngắm một bông hoa lặng lẽ thiền trên cát bỏng. Cát bỏng của sự đời và thách thức thi ca. Tôi đọc thơ anh cũng là cách tôi thiền giữa bao nhiêu dâu bể của hôm qua và hôm nay.

Tháng 10 năm 2024,
K.B.N

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm