TIN TỨC

Một số thành tựu mới của Văn học thiếu nhi Việt Nam ngày nay

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2023-05-31 18:55:37
mail facebook google pos stwis
1640 lượt xem

NGUYÊN AN

Sang vài chục năm đầu của thế kỉ XXI này, bên cạnh sự sôi động (có người cho là phức tạp) của công cuộc mưu sinh nhằm đổi mới và phát triển những thành quả tốt đẹp hơn từ mỗi gia đình đến toàn xã hội, quả thực, đang có một hiện tượng đáng mừng nữa là: không chỉ các nhà chỉ đạo – quản lý, các nhà sáng tác… mà một số đông công chúng đang có nhu cầu đọc sách, rồi tìm hiểu về các thành quả của văn chương – văn học – văn hóa xung quanh mình nhiều hơn.

Và mọi người dân nhận ra: khi con trẻ tìm đọc say mê các sáng tác thơ văn… thì đời sống tâm hồn và một số ứng xử hàng ngày của các cháu dường như có tươi vui và khôn ngoan hơn.

Các nhà nghiên cứu có lý do để nói rằng: văn học thiếu nhi Việt Nam ta đã có thành tựu mới rất đáng khích lệ và biểu dương.

Ngược dòng lịch sử một chút, người quan sát có thể phân tích thêm mà ghi nhận là:

Trong quá trình sinh thành và phát triển hàng trăm năm qua, văn học thiếu nhi Việt Nam (VHTNVN) đã từng là công cụ hữu hiệu để các bậc ông bà, cha mẹ… truyền dạy cho con trẻ bao nhiêu điều về lẽ sống. Ở những năm xa xưa ấy, VHTNVN chủ yếu, là các áng thơ ca dân gian, các truyện cổ truyền miệng do người lớn sáng tạo ra.

Hơn một thế kỉ gần đây VHTNVN đã có nhiều yếu tố khác trước.

I/ Chúng ta có thể lược thuật ra ở đây một số yếu tố khác trước, hay là một số ngọn nguồn chính đã tạo ra diện mạo và chất lượng VHTNVN khoảng 80 năm gần đây là:

1. Giáo dục nhà trường và trong gia đình, ngoài xã hội đã có sự đổi mới, phát triển theo hướng thực dụng, thực hành rất rõ. Trong xu hướng chiến lược – chiến thuật này, số trẻ em đã biết đọc và biết viết ngày càng đông đảo hơn, ngay ở tuổi mẫu giáo – nhi đồng. Hàng vạn rồi hàng triệu con trẻ Việt Nam ở các vùng miền đã và đang có nhu cầu đọc rồi chép truyện, đọc và chép thơ, trong sách giáo khoa và các sách báo khác.

2. Nhà nước đã tạo ra một cơ chế xuất bản và truyền bá sách văn học cho trẻ em: lập ra các nhà xuất bản như NXB Kim Đồng, NXB Trẻ…. Các báo chí của Đoàn và Đội thường xuyên có trang VHTN; ngay trong những năm chiến tranh ác liệt, nhiều thơ văn cho thiếu nhi đã được in ra, chuyển đến các em khá kịp thời qua hệ thống thư viện và các hiệu sách.

3. Các đoàn thể như Đoàn TNCS Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ Việt Nam, Hội Nhà văn Việt Nam… đã phối hợp tổ chức các cuộc vận động, các cuộc thi sáng tác văn học thiếu nhi, trao giải thưởng cho các tác phẩm được bạn trẻ yêu thích.

4. Các nhà văn nhà thơ giờ đây đã viết cho trẻ em nhiều hơn, chuyên nghiệp hóa hơn. Nhiều người có khát vọng gieo mầm nhân ái, giáo dưỡng lý tưởng sống cao đẹp cho con người Việt Nam đương đại bằng việc sáng tác thơ văn cho các cháu các em… thật rõ ràng, cụ thể và khéo léo.

Có thể nói: Đây là 4 yếu tố, 4 vấn đề rất khác trước trực tiếp tạo ra sự phát triển lành mạnh cho VHTNVN mấy chục năm gần đây.

II. Ra đời từ bối cảnh xã hội như thế, VHTNVN mấy chục năm gần đây đã đạt được một số thành tự mới rất đáng ghi nhận, biểu dương

Thành tự thứ nhất – đã xuất hiện một đội ngũ tác giả VHTNVN khá đông đảo.

1/ Đội ngũ này nhiều thế hệ, độ tuổi. Trong đó có:

a/ Những nhà văn nhà thơ từng viết các tập thơ tình yêu trai gái, yêu quê hương đất nước hấp dẫn từ trước năm 1945, vài chục năm sau họ lại viết tiếp, góp cho văn thi đàn thiếu nhi các tập mới hay, như Huy Cận: Hai bàn tay em, Phù Đổng Thiên Vương…, Tô Hoài: Miền Tây, Đảo hoang…

Kế tiếp họ, là những tác giả mới như Phùng Quán (Tuổi thơ dữ dội), Xuân Sách (Đội thiếu niên du kích Đỉnh Bảng), Vũ Cao (Em bé bên bờ sông Lai Vu), Lê Khắc Hoan (Mái trường thân yêu)…

Và đặc biệt là những nhà văn như Đoàn Giỏi với Đất rừng phương Nam, Cuộc truy tìm kho vũ khí, Võ Quảng viết các tập thơ văn như Gà mái hoa, Thấy cái hoa nở, Anh Đom ĐómQuê nội, Tảng sáng… Định Hải làm tươi trẻ thơ bằng các tập như Chồng nụ chồng hoa, Em hát-đu quay, còn Phong Thu thì có các tập thật dí dỏm như Điểm 10, Xe lu và xe ca…

b/ Từ cuối những năm 1960 trở đi, có một loại tác giả VHTNVN hoàn toàn mới mẻ xuất hiện. Sự non tơ mà sớm chững chạc của lớp thiếu nhi cầm bút làm thơ và viết truyện này đã làm dậy sóng thi đàn suốt vài chục năm tiếp theo. Thoạt đầu là Trần Đăng Khoa được nhanh chóng tôn vình là thần đồng bởi một loại bài thơ rồi được tuyển vào các tập thơ cho nhiều lứa bạn đọc cùng xem như Góc sân nhà em và khoảng trời, Khúc hát người anh hùng… mà có người cho rằng “hầu như bài nào cũng hay…”. Cùng với Trần Đăng Khoa là những tác giả trẻ trung khác, họ là: Lê Phương Liên, Khánh Chi, Đặng Hấn, Nguyễn Hoàng Sơn, Trần Quốc Toàn, Cao Xuân Sơn, Phùng Ngọc Hùng, Nguyễn Thành Phong, Nguyễn Đức Quang, Nguyễn Trác, Phong Điệp…

Rồi gần đây hơn nữa là những Nguyễn Nhật Ánh, Hoàng Dạ Thi, Nguyễn Ngọc Thuần, Lê Quang Đôn, Vĩnh Thông, Nông Ích Khiêm…

Thật không thể nào kể hết những tên tuổi đáng quý này. Mỗi người một vẻ, một ngân vang riêng, tất cả, đều khiến cho các nhà nghiên cứu VHTNVN và đông đảo công chúng nhiều năm nay tin mến và hi vọng.

2/ Có chuyện, có vấn đề thú vị nữa là:

a/ Khi phân tích sự có mặt của đội ngũ tác giả VHTNVN hàng trăm người này, ta thấy có xu hướng chuyên nghiệp hóa ngày càng rõ.

Ngay từ buổi đầu lập nghiệp đã chuyên chú với VHTNVN như Trần Quốc Toàn, Nguyễn Hoàng Sơn, Nguyễn Nhật Ánh, Bảo Ngọc…

Từng viết cho mọi bạn đọc, mọi đề tài, nhưng cùng với thời gian và sự chiêm nghiệm thì tập trung viết nhiều cho thiếu nhi hơn như Phạm Đình Ân, Đỗ Toàn Diện, Lê Tuấn Lộc…

Với Nguyễn Quang Thiều chẳng hạn, lại như một chiếu riêng. Ông sáng tác cho thiếu nhi chưa thật nhiều, nhưng các trang thơ văn của ông lại đang tạo ra một ấn tượng đặc sắc.

b/ So với đội ngũ tác giả văn học Việt Nam đương đại nói chung, có thể ví như một tập đoàn quân, thì các tác giả VHTNVN dường như chỉ là một quân khu, một sự đoàn thì phải ? Bé nhỏ và ít ỏi hơn là tự nhiên thôi. Song lực lượng này đang đóng một vai trò hết sức trọng yếu là trực tiếp bồi dưỡng - đào tạo cho nguồn nhân lực sáng tác văn chương của cả nước. Lứa trước dìu dắt lứa sau trong các cuộc vận động – các trại sáng tác, và trên các trang bản thảo… họ đã góp phần tạo nên bản sắc mới cho cả dòng VHTNVN ta.

Thành tựu thứ hai – Đề tài sáng tác của VHTNVN ngày càng mở rộng. Sự mở rộng theo hướng phong phú hóa về nội dung đã đi cùng với sự đa dạng hóa của phong cách nghệ thuật ở mỗi tác giả.

1/ Thoạt đầu thơ thiếu nhi hay viết về sinh hoạt và cuộc sống hàng ngày của trẻ em như Trần Đăng Khoa… Hoàng Minh Chính thì viết:

Hôm qua em đến trường

Mẹ dắt tay từng bước

Hôm nay mẹ lên nương

Một mình em đến lớp…

 

Đường xa em đi về

Có chim reo trong lá

Có nước chảy dưới khe

Thì thào như tiếng mẹ.

Trường của em be bé

Nằm lặng giữa rừng cây

Cô giáo em tre trẻ

Dạy em hát rất hay.

 

Mũ rơm thơm em đội

Hương cốm chan hương rừng

Mỗi lần em tới lớp

Hương theo em đến trường.

(Đi học)

Hoàng Tá có bài Cái sân chơi biết đi:

Chiều về cho kênh nước xanh

Lưng bê mát rượi bồng bênh gió hè

Anh em sáo sậu liệng về

Nhảy tung tăng khắp lưng bê hiền lành

Sáo em: “Hí hí… Kìa anh!

Cái sân chơi của chúng mình biết đi.”

b/ Nhưng rồi chiến tranh nổ ra, rồi cuộc sống cũng có nhiều khó khăn hơn, những câu chuyện thường ngày của con trẻ cũng có khác. VHTNVN kể, vẫn hồn nhiên, mà trong tình thương mến đã có vẻ âu lo.

Cô về với bản lần đâu

Cầu treo nhún nhảy qua cầu chưa quen

Cô ơi nắm lấy tay em

Suối sâu mặc suối, cầu bền chẳng sao.

Cô lên dạy học vùng cao

Cầu ơi cầu chớ nghiêng chao quá chừng

Nếu như cầu tỏ nỗi mừng

Bàn chân cô bước cầu đừng rung lên

Hình như cầu hiểu lời em

Trắng tinh mây núi lặng yên che đầu

Sang bờ, nhìn lại suối sâu

Cô cười: May được qua cầu cùng em!

(Qua cầu - Vương Trọng)

Ấy là câu chuyện ở vùng cao. Còn đây là thơ thiếu nhi viết về một ước ao của trẻ em ở thành thị

Em không muốn cô bán kem

Dáng tất tả mồ hôi đầm lưng áo

Thùng kem to hơn cô rất nhiều

Em chỉ muốn cô là cô giáo

 

Nếu được tiên ông cho một điều ước

Em chỉ ước cô là cô giáo

Để không có những chiều giông bão

Cô thẫn thờ thùng kem ế đầy nguyên!

 

Em không muốn thấy cô bán kem

Em chỉ muốn cô là cô giáo.

(Em không muốn. Kim Hương Giang)

c/ Có một nhóm tác giả viết cho thiếu nhi mà ít hướng tới sự vui cười hả hê rộn rã trong đời, mà hay đánh thức lương tâm và trách nhiệm ở trẻ em. Nguyễn Quang Thiều là một người như thế. Ông kể:

Con chim sẻ nhỏ chết rồi

Chết trong đêm cơn bão về gần sáng

Đêm ấy tôi năm trong chăn

 nghe cánh chim đập cửa

Sự ấm áp trong chăn giữ chặt tôi

Và tôi ngủ ngon lành đến lúc bão vơi

 

Chiếc tổ cũ trong ống tre đầu nhà chiều gió hú

Không còn nghe tiếng cánh chim về

Và tiếng hót mỗi sớm mai trong vắt

Nó chết trước cửa nhà tôi lạnh ngắt

Một con mèo hàng xóm lại tha đi

Nó để lại trong tổ những quả trứng

Những con chim non mãi mãi chẳng ra đời

Đêm đêm tôi chợp mắt

Cánh cửa lại rung lên tiếng đập cánh

Những quả trứng lại lăn vào giấc ngủ

Tiếng lăn như đá lở trên ngàn.

(Tiếng vọng)

Nhân đây, tôi muốn nhắc đến một bài nữa của Cao Xuân Sơn viết cho con gái Bảo Trân, tưởng chỉ là chuyện cha - con trong nhà, đầy tin yêu… mà cũng là bài học đường đời, ông dặn:

Nhà mình nhiều cơn túng bấn

mà chưa đói sách bao giờ

bố muốn bận gì thì bận

con đừng thấy sách ngó lơ

 

…Không cứ ăn xôi mới sống

đừng thèm cố đấm con ơi

giúp được ai, chớ để bụng

được ai giúp, hãy nhớ đời…

 

Xưa nay trăm tài nghìn sắc

không ngoài hai chữ thiện lương

cứ thế mà đi con gái

cả khi mình một con đường.

(Nói với con)

Có vẻ như rất cổ xưa, làm thơ cho con cháu là để nhắc nhở, để hướng thiện cho trẻ. Bài thơ của Cao Xuân Sơn rất thời sự mà cũng đầy chất thế sự nhân gian.

*

Văn thơ của/cho/về thiếu nhi quả là một lĩnh vực riêng về nội dung tư tưởng và phong cách sáng tạo.

Lĩnh vực sáng tạo và nghiên cứu này có một ít đặc thù, nó đòi hỏi người tham gia phải có tấm lòng yêu thương quý trọng, có ý hướng sâu xa mà được phô ra một cách bình dị tinh tế ý nhị... hơn, ấy là chưa kể đến sự tích lũy “vốn liếng trẻ thơ” cho dày dặn đủ dùng, thì mới theo được, mới có thành quả lâu dài được.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm