TIN TỨC

Nắng xanh pha hương giọt mật đầy

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-10-08 17:48:56
mail facebook google pos stwis
87 lượt xem

Giữa nhịp sống vội, THỜI NẮNG XANH mở một khung trời dịu sáng: gió qua mặt cỏ, khói nhang nghiêng vai, thẳm sâu là nếp nhà. Đó là giọng nói về nguồn cội — ít phô trương, nhiều bền bỉ — khiến ta muốn bước chậm lại để lắng nghe. Về tập thơ này đã có nhiều bài viết; lần này, Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
 

TUẤN TRẦN
(Cảm nhận về tập thơ THỜI NẮNG XANHTrương Nam Hương)

Giữa nhịp sống đuổi xô, người trẻ như tôi phải chóng trôi để theo kịp với tốc độ điên cuồng vô nghĩa. Lắm lúc, ở một khoảnh khắc nào đó trên đường đua, ghé nhìn ven đường - bất chợt,“Cỏ mềm xanh thót trái tim”/…/ Chim kêu thót ngực hoa vườn/ “Em xa hòn sỏi cuối đường thót đau”. Thảng thốt tôi nhận ra mình đã quên đi mục đích sống trên đời. Ngày nào có những hình dung như thế thoáng qua tâm trí là đêm về tôi lại “nhảy lên xe” để tìm… Tìm “Về hỏi thăm mùa cũ”, và thấy, “Gốc dâu người đốn bỏ/ Rễ nắng xòa lên tôi”. Tôi lẫn trốn thực tại mông lung ngột ngạt, ngụ vào chốn nương náu bình yên trong “THỜI NẮNG XANH”.

Bối cảnh nghệ thuật trong thơ Trương Nam Hương có khả năng lớn lao làm thời gian tiết độ, để cho ta kịp nán lại mà nói lời cảm tạ cuộc đời. Ta sống cẩn trọng và chân thành hơn. Ta biết“…Lặng đến cuối cơn mưa bất chợt”, để thấy “Lộng lẫy sau lưng bảy sắc cầu vồng”. Hẳn là lúc đó ta được đứng ở vị trí bên lề, cho cùng trải phơi bao mạch nguồn cảm hứng yêu thương thao thiết:“Biển nhắc thu về giọt máu xanh” - Tiếng thơ kiến tạo trên nền tảng đó.

“Sớm nay trời đất ngây ngoai quá/ Mùa nhắc heo may ghé cửa phòng/ Nắng cũng thơm mềm mây cũng ngọt/ Nhớ gì cây phố khép cong cong!”. Và có những buổi sáng như thế, một người trẻ cho phép mình “vượt ngưỡng” bằng cách tìm về, mặc “tay trắng hồn trong”. Tâm hồn ta cần được nghỉ ngơi, để khơi nguồn... Kể cả việc ngồi như ngồi chờ cơn bão cơm áo gạo tiền đổ tới, thì ta vẫn cứ chấp niệm vô cùng.

Chẳng có cơn bão nào mạnh hơn cơn bão lòng, cơn bão trống vắng giữa ngàn ngạt người. Để khỏa lấp vá víu những hư nát bấy trần nơi trái tim, khi phong phanh khuôn ngực đi qua phong ba của đời sống đương đại. Có lẽ, ta chỉ còn cách kiếm nhìn về quá khứ, những điều thiêng liêng thầm lặng “Đứng ngoài các cuộc bon chen/ Lắng trong nước mắt muộn phiền nhân gian”. Chỉ khi ta biết ơn, mới sâu cảm về thế giới trần trụi này. Thực tế thế giới trần trụi là “đồng lõa” của điều chân thành đẹp đẽ. Và khi ta đấu tranh với thực tại xấu ác trần trụi kia, lúc chiến thắng mới thấy được sự đáng giá hơn ngàn lần của cái thiện đẹp chân thành: “Khi con nói về giang sơn gấm vóc/ Nhớ đừng quên có hạt lúa tảo tần/ Khi con nói về lớn lao tổ quốc/ Nhớ có phần vĩ đại của nhân dân”.

Ngoài kia mọi sinh vật chữ nghĩa mặc màu áo cách tân, giẫm đạp nhau can dự vào hiện thực nhân sinh. Với nhiều tiếng nói “đại nghĩa”: Khi đả phá, khi kêu đòi, khi giễu nhại, khi nghịch thường, lúc ngạo nghễ… Nhưng dễ mà đến khi “bạo phát bạo tàn” nếu thơ chẳng biết mình biết ta, biết vai trò, vị trí, biết điểm dừng và giới hạn của chính mình. “Thần Đồng” đó mà cũng chỉ khiêm hạ đứng “Góc sân” nhìn “khoảng trời” nữa là,…

Với Trương Nam Hương, nhỏ nhoi lắm – “Linh cảm câu thơ rét muốt về”, “Dáng gầy như lau sậy”, “Phận nghèo lắm lúc liêu trai/ Tình mơ lỏng hết khuya cài hèn sang”. Anh luôn cất lên những tâm tình bé mọn, giòn khô phận người như thế. Để kết bện bền bỉ sợi tình tơ nghĩa nối lại đôi bờ hư thực mà “ngỡ” mà lật trở mà yêu thương ngào ngọt. Để, “Sau đêm” “Sáng dậy hương mùa xanh đẫm tay/ Em dâng tươi mưởi giấc em đầy/ Đêm mơ gió chúm trên môi lá/ Em… vít tình anh tưởng bóng cây”. Để thương, “Thương bông cúc nhỏ chiều mưa ấy/ Run rẩy chờ anh giữa gió lùa”.

Tôi vẫn nhận ra đôi điều “bất an” hay “chát chúa” về đời sống trong âm hưởng tiếng thơ. Nhưng những nặng lòng cho tang tóc thời thế đó được bọc gói trong hình hài thẩm mỹ đẹp trong nhẹ nhàng, với những cử động giai âm hết sức tế vi mà đủ sức ngân vang. Anh thấy được phía trước là hư vô,“Người mới đây người… không thấy nữa/ Nhang vẽ chân dung, khói điểm thần”. Nên ý thức tìm về lối cũ đường xưa, để hôn rửa cho nhu thuần tấm thân trần vô lực.

Trương Nam Hương vẫn mãi miết nuôi “mộng ban đầu khó phai”. Anh vẫn khóc cười cùng “sương trắng, nắng xanh”. Mặc gió Á, mưa Âu ngập đường phì độn. Mặc hình hài thẩm mỹ thế gian thai mang những nồng nặc khí thở thời đại - một thời đại ăn xổi ở thì. Tiếng thơ anh vẫn cần mẫn điều tiết dòng chảy mềm mại nhỏ rỉ. Để giữ cho dòng văn hóa nguồn cội thiêng liêng đồng chảy, song cùng những bội thực suy tưởng hậu hiện đại. Và thơ Anh có mặt để chống lại sự vô cảm của người đời với thơ chăng!

Trương Nam Hương là nhà thơ hiện đại, thuộc thế hệ hậu chiến. Trên mảnh đất “cảm thức nguồn cội” - vốn dĩ là thi đề đã từng thành công rực rỡ, đóng thành mốc son sáng chói tôn vinh những thi hào tiền bối tuyệt tác như: Nguyễn Bính, Trần Mạnh Hảo, Nguyễn Duy, Thạch Quỳ, Bằng Việt, Viễn Phương… Thế nhưng, hồn thơ Trương Nam Hương đã vượt qua thử thách lớn và gieo hạt mầm ấn tượng nội tâm riêng khác - Không hề “yểu xanh” so với những tán của các thi dân thế hệ trước đã thâm canh. Với đồng bối, thì thơ Anh đã trở thành số một, vị trí không thể thay thế trong biểu đồ thi ca “Những mùa thu cũ”…

Yếu tố làm nên chất trữ tình vinh diệu trong thơ Trương Nam Hương, trước hết từ bản thể một tâm hồn “tinh tế bẩm sinh”. Trên phương diện nghệ thuật thì thi cách/ “mánh khóe” dụng ngôn bằng thanh trắc. Với sự khéo léo xếp đặt chấm phá những động từ “trúc trắc” vào trong tứ thơ đang rất ngọt đã tạo nên ấn tượng tri giác độc đáo. Đó là sáng tạo tuyệt vời để xác lập trên nền tảng cũ mòn một điều sáng lạ. Tất nhiên tứ - tình – hình ảnh – âm thanh phải rất tài hoa tuyệt thế: “Bừng thức tinh khôi/ Bông hoa khe khẽ hát/ Anh áp nhẹ vào thăm thẳm nhan sắc/ Anh bắt gặp vòm cây em trẻ lại/ Suối sông thấm đẫm mưa hè/ Mùi ngây ngái của ngô non bùn bãi/ Chú nhái nằm thoi thóp lá sen che”.

Lối tạo tác ngang nghạnh giữa mạch thơ đó, nếu ngòi bút không đủ khéo léo, sẽ làm cho cấu hình thẩm mỹ trở thành quái gỡ trong tạo lập văn bản tình thơ miền nhớ - vốn dĩ rất lặng lẽ, ngọt bùi, ân cần và tràn dư thao thiết. Trương Nam Hương đã xử lý chính xác tuyệt đối, cho âm thanh của trí tưởng sau cùng, gu vị còn đọng lại vẫn mượt mà không một gút sợi. Vừa cầu kì, vừa giản dị, vừa trong trẻo lại rất thanh tân. Có thể nói trong thơ Trương Nam Hương có bối cảnh nghệ thuật hương thôn mang điệu hồn Nguyễn Bính, nhưng giữa bầu không mướt như nhung lại được uốn cong chiều kích để “chuyển đổi cảm giác”, tạo thành khối hình tưởng tượng cho cảm xúc và kí ức đắp bồi thành sáp mềm lấp lánh:

- Nến tiễn buồn thương- lệ ngún thân

- Trăng chếch sân đình đỏ miếng cau

- Ta ngồi ngóng khoảng chiều im, thót buồn

- Em vít tình anh… tưởng bóng cây

- Sóng nhớ nghiêng duềnh cả mép ghe

- Nắng trong mắt những ngày thơ bé/ Cũng mơn xanh như thể lá trầu.

- Hoa sữa muộn mùa thơm thắc thỏm

- Lêu têu chân đất quạt mo thằng bờm

Các thanh trắc được lựa lọc và xếp đặt một cách sắc sảo đã kiến tạo sự cách tân trong thi pháp nhưng ảnh tượng nghệ thuật quá đỗi “ước lệ”- trong trẻo trắng ngần bầu không thôn ấp, cỏ, gió và nắng và bóng làng xa, vãn chợ chiều lại thể hiện cái bình yên sâu sắc trong thánh địa tâm hồn. Sự đan xen cũ mới tài tình đã làm cho thơ Anh trẻ trung, yêu đời - Dễ “đánh lừa tri giác”, để rồi thò sâu được vào trong lòng thế hệ hôm nay mà bắt đầu sửa sang/ chữa lành cho một căn bệnh mang tầm vóc thời đại: Vô cảm.

Không đứng “Góc sân” nhìn “khoảng trời” như Thần Đồng, Trương Nam Hương chọn “nhân sinh quan” “Góc cỏ” để nhìn những “nem nép” thân phận đang thể nghiệm hành vi thế thái nhân tình một cách trộm giấu xấu hổ. “Trong im lặng biếc xanh”, ta thấy xanh biếc màu sắc sự sống tồn tục nghiệt ngã của những sinh linh. Nhưng rồi sau tất cả, tất cả những “hành giả”, những “động tác” “cơ man là đê hèn trơ trụi” vẫn có một chồi non ủ đất, no sương, đợi chờ để một ngày tách vỡ, bỡ ngỡ gặp người…

"Trong im lặng biếc xanh của cỏ

Cơ man gió và vầng trăng

Có nụ hôn lắm mùi mặc cả

Trong im lặng biếc xanh của cỏ

Cơ man nắng và tự do

Có dâng hiến không đòi giá thú

 

Trong im lặng biếc xanh của cỏ

Cơ man nhớ và cô đơn

Có câu thơ quặn đau sinh nở

 

Trong im lặng biếc xanh của cỏ

Cơ man quên và vô ơn

Có điếu thuốc vội vàng dụi lửa

 

Trong im lặng biếc xanh của cỏ

Cơ man bụi và chúng sinh

Có ánh mắt khóc cười khép mở

 

Trong im lặng biếc xanh của cỏ

Cơ man sương và lá đêm

Có thổn thức đợi mùa… để vỡ!"

Đọc thơ Anh từ thưở mười ba cho đến bây giờ tôi vẫn thế - “vẹn nguyên”: Một tình yêu được vẽ ra “lồm cồm” nơi nền đất, sàn nhà - Nguệch ngoạc những nét đầu tiên tôi tập làm thầy giáo chép lên cánh cửa hình ảnh quê cha, “người lạ kẻ quen”: “Ta nghe trong lời mẹ hát… / Chòng chành nhịp võng ca dao…”.

Ra đời vượt núi băng sông, lăn mình quay quắt qua những ngọn cao cuộc sống với nhiều thử thách chông gai. Cho đến khi trở lại với “THỜI NẮNG XANH”, vẫn vậy trong tôi: cúi nhìn về phía hương thôn - một bóng nước thẫm in nền trời chiều hôm nắng quái. Tôi náu trong tiếng thơ ấy như nép mình sau vạt áo lưng mẹ, một tấm khiên vòng tay vững chãi cha ôm. Có thể chăng một lớp vải liệm, một nắp áo quan ngày gánh nội ra đồng. Hay tôi đã luôn ở trong tiếng thơ Anh như cái bóng đứa trẻ ngây thơ hồn hậu náu sau bờ tre mái rạ để nghe:Run trên gốc rễ cũ càng/ Tôi trong dáng ngoại, bóng làng chở che”.

Bài in trên tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 10/2025

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm
Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn
Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM.
Xem thêm
Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây
Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.
Xem thêm
Chân dung Nguyễn Bính qua giai thoại văn học
Để đánh giá chân tài nhà thơ phải dựa vào trước tác của họ. Tuy vậy, nhiều khi căn cứ vào các cảnh huống sinh hoạt thường ngày, dựa vào những câu chuyện hoạt động văn nghệ đời thường của văn nghệ sĩ, mà người ta hay gọi là giai thoại, cũng giúp ta hiểu thêm cuộc đời và sáng tác của họ hơn. Hầu hết tác giả văn học Việt Nam đều có những giai thoại đáng nhớ, trong đó không thể không kể đến “thi sĩ chân quê” Nguyễn Bính.
Xem thêm
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
Xem thêm
Một cách nghĩ khác về tình yêu
Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm với tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu” mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.
Xem thêm
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Xem thêm