TIN TỨC

Nghệ thuật dựng chân dung nhân vật của nhà văn Nguyên Ngọc

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2021-12-23 18:49:51
mail facebook google pos stwis
4213 lượt xem

(Vanchuongthanhphohochiminh) - Nhà văn Nguyên Ngọc là một nhà văn  có phong cách xây dựng nhân vật độc đáo, giàu sức sáng tạo. Cái tài  của Nguyên Ngọc là dựng bức tranh hiện thực, hào phóng dữ dội, quyết liệt, nguyên sơ thuần chất. Phương thức mô tả hiện thực không lặp lại, mà mỗi truyện mỗi tác phẩm lại sử dụng quen thuộc nếp tư duy nghệ thuật là dạng thức khái quát. Từ cái nhỏ để suy ra cái lớn, từ một trường hợp đơn nhất mà ngẫm đến những chân lý, đem qui luật chung mà ngẫm đến những hiện tượng rất riêng bám rất sâu  sát hiện thực, phản ánh đúng bản chất cuộc sống. Nguyên Ngọc thể hiện cái phi thường mà con người và cuộc sống từng trải.

Nhà văn Nguyên Ngọc

 Trong những tác phẩm viết về  chiến tranh các nhà văn thường giải quyết vấn đề quan hệ  giữa sự kiện và nhân vật. Qua mô tả sự kiện thì nhân vật lại bị mờ nhạt. Ngược lại, tập trung miêu tả nhân vật thì việc tạo dựng sự kiện bị hạn chế. Nguyên Ngọc dùng sự kiện để miêu tả tính cách nhân vật, tính cách nhân vật phát triển cùng sự kiện. Nguyên Ngọc có biệt tài về dựng. Dựng cao hơn kể. Nguyên Ngọc là nhà văn viết kỹ lượng và lại có sự chọn lọc, khái quát. Nhà văn miêu tả cụ thể chi tiết về các sự kiện: Trận đánh, cuộc vận động quần chúng… và từ cái nhìn đó để miêu tả nhân vật. Đặc biệt,  trong bút ký nhân vật được khắc họa rất chân thực trọn vẹn, mặc dù số trang văn miêu tả mỗi nhân vật rất ít. “Cát cháy” (Nguyên Ngọc, tản mản nhớ và quên) là tập bút ký viết về xã Bình Dương, huyện Thăng Bình, Quảng Nam vào thời điểm 1969-1970. Nguyên Ngọc chú trọng viết về số phận nhân vật.  Những con người sinh ra trên cát và lớn lên giữa vùng cát. Những năm đánh Mỹ, Nguyên Ngọc từng làm bí thư chi bộ một xã vùng cát và ông hiểu rất rõ cuộc sống người dân ở đó trong chiến tranh. Càng bám sát thực tế, sống bằng thực tế thì những trang văn  của Nguyên Ngọc  có sức hấp dẫn đặc biệt. Đây là một đoạn văn trong bút ký’ Cát cháy”:

     “ Chị Huyền cười:

- Em là bí thư thời  mất dân, mất nước mà, các anh.  Nhưng mà, quả thực em đã được chuẩn bị cho giai đoạn đó. Tất nhiên khốc liệt đến nước đó, phải nói thật trước đó mình cũng chưa hoàn toàn lường hết. Nhưng chuẩn bị cho mọi tình huống thì mình đã có rồi. Chuẩn bị lực lượng. Chuẩn bị thế trận. Như  các anh quân sự hay nói: Lập thế trận. Mà thế trận từ hàng chục năm trước. Có khi em cũng nghĩ:  Sao mình lại tài tình vậy? Nhưng rồi nghĩ lại: Chắc là  do tự cuộc đấu tranh sinh tử nó dạy cho. Sơ hở, chậm chạp là trả giá ngay, mà trả bằng máu… ta chuẩn bị trước hàng chục năm. Em cũng thuộc loại được chuẩn bị đó….

- Các anh cứ uống nước đi, các anh thông cảm, nhà không có đàn ông, chẳng có trà - chị Huyền nhắc lại. Các anh uống nước đi, chuyện sẽ rất dài…..”.

 Những trang văn đầy xúc động, Nguyên Ngọc đã viết về số phận của bao cô gái đã từng làm nên bao chiến công trên vùng đất Bình Dương oanh liệt và sau chiến tranh họ trở về cuộc sống từng ngày: “Họ chỉ hẹn thỉnh thoảng gặp nhau, ngồi với nhau, chỉ riêng với nhau thôi, nhắc lại chuyện xưa, những chuyện chỉ họ biết và hiểu. Họ chọn cái quán ngã ba này làm điểm hẹn, vì bị chủ quán, cô gái trông ỏn ẻn đó, hơn hai mươi năm trước từng là người chỉ huy du kích mật trong khu đồn. Những người đến trông xấp xỉ bằng tuổi nhau: Trên dưới bốn mươi. Chỉ có một chị hiện nay là phó chủ tịch xã. Còn thì, người đi buôn vặt, người thì chuyên đi giữ bò… Tất cả họ, không trừ một ai, đều long đong. Có gần một nửa không  có chồng. Chiến tranh đi qua, và  bỏ lại họ. Cuộc sống mới đi tới, và bỏ quên họ. Họ bị quá lứa. Người nào cũng thương tật, có người đến tàn phế, tuy nhìn bên ngoài hầu như không thể thấy dấu hiệu nào của vết thương cả: Toàn nội thương, do bị tra tấn.  “Không có vết thương nhược thể” như cách nói của các cơ quan làm chính sách hiện nay, không có vết thương nhược thể “nên cũng chẳng có bằng chứng thực thể” gì để có thể cấp cho họ một cái thẻ thương binh, các anh cán bộ làm chính sách bảo vậy….

Gặp nhau, cũng có lúc họ trêu nhau chuyện chồng con long đong: Gả người này cho ông góa vợ nào đó, hoặc xui người kia thôi thì lấy đại một ông đã đàng hoàng vợ con, làm lẽ cũng được, hoặc nữa cùng lắm “tự túc” một đứa con mà nuôi, thì đã sao!... Lao xao ầm ĩ. Rồi chợt im lặng, ứa nước mắt, rồi đột ngột ôm nhau ngã ra cười rũ rượi…

Rất nhiều khi họ cùng nhau nhắc lại những chuyện chiến đấu cũ, những trận đánh mạo hiểm, những phen bị bắt, ở tù, bị tra tấn chết đi sống lại… và, đôi lúc chợt như sững sờ, họ nhìn đăm đắm vào mắt nhau, và hỏi, hỏi nhau hay tự hỏi chính mình:

- Tại sao hồi đó bon mình ghê gớm như vậy he?

  Câu hỏi không ai trả lời”.

Có những chuyện không có cốt truyện, Nguyên Ngọc dựng trọn vẹn chân dung nhân vật, cái tài kết hợp giữa kẻ, tả và dàn dựng, khâu nối hệ thống các chi tiết. Nguyên Ngọc kẻ về một ông già người Mèo có tên là Cắm trong truyện “Rẻo cao”: “Cắm say mê hoạt động cách mạng, về già hoạt động cách mạng ở quê. Công việc của Cắm là chuyển thư từ, báo Đảng xuống các bản làng. Người cán bộ này có điều đặc biệt là không biết chữ, vì vậy thằng cháu ruột của Cắm một anh chàng bưu tá huyện đã phải đánh dấu cho ông bằng những sợi chỉ xanh, chỉ đỏ. Nguyên Ngọc dựng chuyện tự nhiên, đan cài vào trong mạch chuyện chất trữ tình đằm thắm, mạch tự sự về cuộc đời nhân vật phát triển lô gích, giản dị.

Nguyên Ngọc  là nhà văn rất chú trọng xây dựng những chi tiết nghệ thuật hay. Trong bút ký “Cát cháy”, có chi tiết đám cưới sau chiến tranh không đủ đũa dùng, nhiều gia đình thiếu đũa, nhà văn ghi lại thật cảm động: “ Tre vót đôi đũa ăn cơm cũng không có. Ai mang được đôi đũa ở Đà nẵng về là phải giữ cẩn thận. Lỡ gãy là ăn bốc!... Mà bữa ăn hồi đó, cực quá chừng. Có chút rau chút khoai, có hột cơm rồi, nhưng trống trơn thế này, có cơn gió là cát chen đầy bữa cơm.  Mà cơm nhai lạo xạo trên cát. Bụi cát mù mịt suốt ngày. Bọn em con gái con lứa mà đứa nào đứa nấy toét mắt hết… giữa bữa tiệc cưới hồi đó, tự nhiên anh Bốn đứng dậy quát ầm ầm: “Tới cái đũa cũng không có mà ăn, ăn bốc mọi rợ, sống không ra người. Sống không có màu xanh, sống làm gì!… Ai cũng ứa nước mắt..”. 

 Những chi tiết xúc động gợi cho ta liên tưởng đến sự phi thường của con người trong chiến tranh ác liệt. và những chi riết đó đã khắc họa rõ nét chân dung nhân vật. Hình ảnh con Xuyến trong tiểu thuyết “Đất Quảng”(tập 1) được mô tả thật xúc động  ngay từ đầu, Xuyến có một số phận đau thương: “ Thắm sinh đứa con đầu lòng trong lao quận, hai tay còn bị đóng chặt trong xiềng sắt và con Xuyến rơi ra trên nền xi măng lạnh đến nỗi suốt một ngày không cất được tiếng khóc, chỉ chớp mãi đôi môi tím rịm như con cá bị ném lên cạn. Người mẹ gửi Xuyến lại rồi lại đi tìm xác chồng. Thắm gửi con Xuyến cho cha thất thưởng đi suốt dọc bờ sông Trúc đi tìm xác chồng. Khi lớn lên Xuyến đã biết sống như một người cách mạng, Xuyến căm thù giặc sâu sắc. Con Xuyến thường rủ rê với mẹ:  Khi mô thằng Min về mẹ cho đi diệt hắn nghen mẹ, được mà, con có lựu đạn, con trả thù cho cha”.

Cách giới thiệu nhân vật thường nhắc đi nhắc lại một đặc điểm nào đó của nhân vật. Cách giới thiệu này có ngọn nguồn từ cách giới thiệu nhân vật trong sử thi. Trong tác phẩm “Rừng xà nu” Nguyễn Trung Thành tập trung miêu tả hai bàn tay của nhân vật Thú, điệp lại ba lần hình ảnh những vết dao trên lưng Thú ngày nhỏ để làm nổi rõ dụng ý nghệ  thuật của nhà văn. Nguyên Ngọc miêu tả ngoại hình nhân vật, cái lối so sánh theo lối tư duy sử thi đã tạo nên tính biểu tượng rất cao: Người tiểu đội trưởng Y kơ bin (Kỷ niệm Tây Nguyên) được miêu tả: “ Vạm vỡ và im lặng như một hòn núi, bàn tay vạm vỡ và sần sùi, bộ ngực rộng rãi và căng thẳng, bộ ngực chắc như một cây gỗ lim dài”. Những nét ngoại hình ấy rất giàu biểu tượng, được lặp lại ở nhân vật cụ Nết trong “Rừng xà nu”: “ Ông cụ vẫn quắc thước như xưa, râu bây giờ đã dài tới ngực và vẫn đen bóng, mắt vẫn sáng và xích ngược, vết sẹo ở má bên phải vẫn lảng bóng, ông ở trần ngực căng như một cây xà nu lớn. Với nhân vật Thú : “ Hai cánh tay rộng lớn như hai cánh lim chắc của anh ôm chặt lấy mẹ con Mai”. Trong quá trình thể hiện chân dung nhân vật, nhịp văn của Nguyên Ngọc có độ rung cảm đặc biệt. Nhiều khi thông qua lời của một nhân chứng mà ta hiểu được tính chất của hiện thực chiến tranh trong nội tâm của con người : “Chưa bao giờ em thấy người chết nhiều như lần ấy. Tất cả dồn xuống hố bom, xác chồng chất lên nhau. Tối bọn em mò về. Không còn nước mắt mà khóc nữa. Suốt đêm đi chôn. Xác trẻ con thì cứ quang gánh một em  một đầu rổ sáo  gánh đi. Xác người lớn thì khiêng…” (Cát cháy). Câu chuyện Nguyên Ngọc viết vừa khép lại nhưng dư vị về thiên nhiên đất nước, con người ở rẻo cao cứ sâu thẳm dai dẳng mãi, bởi cái hồn khí thiêng núi rừng, cái đẹp của tạo hóa bắt nhịp vào cái đẹp của hồn người, thật dung dị bền chặt: “Cắm đi một mình trong đêm đúng như  báo Đảng nói, đêm nay trời ít mây và có gió nhẹ. Thỉnh thoáng có mưa nhưng là mưa nhẹ sương. Mùa xuân về trên “Rẻo cao” đã làm nở những thứ hoa chỉ thơm ban đêm kín đáo như nụ cười tình của một cô gái Mèo. Tiếng kêu của con hoẵng lạc bầy trong rừng khuya nghe như tiếng gọi tha thiết của một con người. Cắm nghĩ chưa bao giờ anh nghe báo nói về tiếng kêu của con hoẵng đó. Nhưng nói làm gì trên khắp đất nước ta, có nơi nào mà một đêm mùa xuân mà lại không nghe thấy tiếng kêu tha thiết của một con hoẵng con. Cắm xốc lại dây súng nhưng không phải để bắn. Anh đi nhanh trong đêm quen thuộc”.

 Nguyên Ngọc đã viết bằng tấm lòng tha thiết gắn bó với cuộc sống con người. Nhà văn hiểu sâu sắc tường tận sự hy sinh, phi thường của con người Việt Nam trong chiến tranh cách mạng. Trong mạch dẫn chuyện, xen giữa mạch tự sự của nhà văn, có hồi ức của nhân chứng, phả vào đó là cái trạng huống tinh thần, thế giới trữ tình của người viết.

               

      Nguyễn Văn Ngọc

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm