TIN TỨC

Người mang tiếng hát vượt Trường Sơn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2022-05-11 07:51:56
mail facebook google pos stwis
917 lượt xem

CUỘC THI "ĐỀN ƠN ĐÁP NGHĨA"

NGUYỄN MINH NGỌC

Mỗi khi nói đến Đoàn Văn công Quân Giải phóng miền Nam (nay là Đoàn Văn công Quân khu 7), nhiều người vẫn thường nhắc đến một nữ diễn viên đa tài với tất cả tình cảm yêu mến, cảm phục, xen lẫn sự tiếc thương. Đó là chị Nguyễn Thị Kim Yến, người được sinh trưởng trong một gia đình trí thức lớn của đất nước. Chị là con thứ hai của Giáo sư - Bác sĩ Nguyễn Tấn Gi Trọng, quê ở tỉnh Mỹ Tho (nay là tỉnh Tiền Giang) và dược sĩ Mai Thị Tùng Thọ. Sau ngày toàn quốc kháng chiến (12/1946), Cục phó Cục Quân y Nguyễn Tấn Gi Trọng được Chủ tịch Hồ Chí Minh giao trọng trách Tổng giám đốc Nha thông tin tuyên truyền. Ông là đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đặc biệt, bác sĩ Trọng là một trong những thầy thuốc bên cạnh Bác Hồ, chăm lo sức khỏe cho Người. Mới 2 tuổi, Kim Yến được cha mẹ đưa lên chiến khu Việt Bắc. Và nhờ vậy, cô bé có may mắn được sống trong tình thương bao la của vị Cha già dân tộc. Một lần Kim Yến được Người bón cơm và nghệ sĩ nhiếp ảnh đã ghi lại được khoảnh khắc kỳ diệu ấy. Lên 5-6 tuổi, nhiều lần Kim Yến được theo cha vào gặp Bác Hồ và hát cho Người nghe.


Bác Hồ bón cơm cho bé Yến (TL).

Sau ngày hòa bình lập lại (1954), Kim Yến theo gia đình về Hà Nội. Học hết phổ thông, chị thi vào trường âm nhạc. Là một cô gái thông minh, xinh đẹp và hiếu động, sở hữu giọng hát thiên phú từ tấm bé, Kim Yến còn học cả accordéon. Tốt nghiệp âm nhạc, Kim Yến học tiếp trường nghệ thuật kịch nói Việt Nam, cùng khóa với nữ diễn viên Trà Giang… Năm 1964, tốt nghiệp hạng ưu, với điều kiện thuận lợi của gia đình, con đường tu nghiệp ở nước ngoài đang rộng mở thênh thang trước mắt chị. Nhưng nghĩ đất nước còn bị chia cắt, Kim Yến gia nhập Đoàn Văn công của Sư đoàn 330 để có cơ hội trở về Nam phục vụ đồng bào và chiến sĩ, góp phần giải phóng quê hương. Chị đã cùng các đồng nghiệp mang lời ca tiếng hát vào tuyến lửa Quảng Bình và tuyến đường Trường Sơn, dưới tầm pháo bầy và bom B52 rải thảm, bất chấp biệt kích địch và cả hàng rào điện tử McNamara…

Đầu năm 1969, Tổng cục Chính trị quyết định bổ sung cho Đoàn Văn công Quân giải phóng một đội hình được đào tạo chính quy, cùng một số diễn viên của Sư đoàn 330. Trong số này có cặp vợ chồng trẻ Tiến Hiển, diễn viên kịch và Kim Yến. Để ghi dấu đoàn nghệ thuật thứ hai chi viện cho tiền tuyến lớn, nên đoàn này có tên là Z2. Từ Hà Nội, xe chở đoàn tới làng Ho, miền tây Quảng Bình, nơi đặt Binh trạm 27 của Bộ Tư lệnh 559. Thử thách đầu tiên là vượt dốc Cổng Trời cả ngàn thước, bắt đầu chặng hành trình dặc dài, gian khổ. Đi bộ, trèo đèo, lội suối, xuyên dải Trường Sơn hùng vĩ. Nhằm bảo đảm kế hoạch hành quân, chi bộ Đảng họp ra nghị quyết: đảng viên, đoàn viên phải gương mẫu, quyết tâm về tới nơi an toàn. Tuyệt đối, các cặp vợ chồng trẻ không ai được có bầu dọc đường! Với tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, các thành viên trong đoàn đều tự nguyện gác lại tình riêng.

Cứ thế ngày đi, đêm nghỉ. Đến mỗi binh trạm là Đoàn Z2 lại tổ chức biểu diễn. Có trạm chỉ vỏn vẹn vài người, song đoàn vẫn tổ chức trọn vẹn một chương trình. Trải nhiều cung đường, mệt bở hơi tai, nhưng hễ cứ gặp bộ đội Công binh mở đường hoặc Thanh niên xung phong, là đoàn liền dừng lại phục vụ. Lời ca, tiếng hát trong trẻo của văn công thực sự mang lại niềm lạc quan tin tưởng vô bờ bến cho những người đang ở tuyến trước. Là “đào kép” chính, Kim Yến đảm nhận nhiều vai nòng cốt. Đó là người mẹ trong vở kịch “Đâu có giặc là ta cứ đi” của Nguyễn Vũ (Ngô Y Linh), rồi “Em bé giao liên”… được bộ đội hoan nghênh nhiệt liệt. Thoắt cái, chị đã sôi nổi, dịu dàng trong vũ điệu “Cô gái Uzbekistan”. Kim Yến say sưa kéo phong cầm cho tiết mục tấu vui nhộn “Anh hùng đâu cứ phải mày râu”. Thông thường, mỗi chương trình, bao giờ chị cũng phải xuất hiện với tần suất 4-5 lần. Lắm khi bị cơn sốt hành hạ, song chị Kim Yến vẫn cố vượt lên để không bị rớt lại, kịp biểu diễn phục vụ bộ đội.

Dọc đường hành quân, tình cảm lứa đôi đã khiến Kim Yến “vỡ kế hoa5ch”. Chi đoàn thanh niên họp kiểm điểm và thi hành kỷ luật, khai trừ Tiến Hiển - Kim Yến ra khỏi Đoàn. Một quyết định có phần thái quá, để lại kỷ niệm buồn cho những người trong cuộc, khiến họ về sau mãi vẫn còn ân hận. Không hề nản chí, cặp vợ chồng trẻ vẫn cùng đồng đội hành quân.

Ròng rã gần 6 tháng trời, Đoàn Z2 mới vào đến miền Đông Nam bộ, về căn cứ Chàng Riệc, Tây Ninh. Chưa kịp nghỉ ngơi lấy sức, Kim Yến cùng các đồng nghiệp bắt tay vào luyện tập. Sau khi ổn định nơi ăn chốn ở cho anh chị em trong đoàn, Đoàn Văn công Quân Giải phóng xây dựng chương trình mới phục vụ các cánh quân chủ lực đang hoạt động ở Phân khu 6 và Long An, đồng thời phục vụ Đại hội tổng kết của Trung ương Cục và Bộ chỉ huy Miền.

Mùa mưa. Trong cánh rừng già, khắp nơi một không khí ẩm ướt, những tán lá ủ nước nặng trĩu suốt ngày đêm, hiếm khi có được một lúc khô ráo. Bệnh sốt rét bùng phát và gần như không chừa một ai. Có điều, không gì có thể quật ngã được ý chí và nghị lực của những người nghệ sĩ - chiến sĩ. Tháng 10/1969, những cơn mưa lê thê vẫn kéo giằng dai. Khắp vùng, những trảng cỏ, có nơi nước ngập đến bụng, đến ngực. Lãnh đạo, chỉ huy Đoàn Văn công Quân Giải phóng quyết định lên đường đi biểu diễn phục vụ các “đám giỗ”([1]). Anh chị em trong đoàn ai cũng háo hức. Trước giờ xuất phát, chị Kim Yến lên cơn sốt rét. Nhưng niềm ao ước được ra quân cùng đồng đội khi về đến chiến trường miền Đông đã khiến chị cố giấu và nói nhẹ để được đi. Cả đoàn, ai cũng thương ai cũng quý người con gái tài hoa, xinh đẹp. Quân y đơn vị đã tập trung thuốc men ưu tiên cứu chữa cho Kim Yến, song cơn sốt quái ác dường như không hề có dấu hiệu thuyên giảm. Sau khi hội ý chớp nhoáng, lãnh đạo đoàn đi đến quyết định tạm gửi bệnh nhân ở lại hậu cứ.

Và đoàn lên đường. Phương tiện di chuyển là lội bộ, khuân vác, đội mưa mà đi. Cứ thế, đến ngày thứ ba thì đến được Lò Gò. Trong khi cả đoàn tạm nghỉ chuẩn bị vượt sông Vàm Cỏ, thì chiến sĩ trinh sát chạy đến thông báo: từ hai ngày nay có một “cái đuôi” bám theo rất đáng ngờ. Nghe vậy, chỉ huy đoàn liền cử một tổ bí mật quay lại. Nửa giờ sau, anh em dẫn về một cô gái mặt mày tái nhợt, người ướt sũng từ đầu đến chân. Đó là Kim Yến. Cả đoàn sững sờ trước ý chí không gì lay chuyển nổi của chị. Lập tức, các đồng nghiệp nam chặt cây dựng cột và quây chiếc lều tạm bằng nilon. Cánh nữ xúm lại dìu Kim Yến vào trong lều chăm sóc và ủ ấm cho chị. Nằm trên võng, Kim Yến khóc tức tưởi: “Các anh chị định bỏ em, nhưng làm sao em có thể ở nhà được khi mà đợt ra quân đầu tiên của đoàn đến với các chiến sĩ Quân giải phóng. Em không thể yên lòng khi các bạn em đi về gần quê hương yêu dấu”.


Gia đình chị Kim Yến (TL).

Đoàn trưởng Vũ Thành bố trí người dìu Kim Yến, cả đoàn tiếp tục hành quân. Các thành viên khỏe mạnh thì dùng tấm nilon bọc quần áo làm phao để vượt sông, chỉ mượn được một chiếc xuồng nhỏ ưu tiên cho người ốm và chở nhạc cụ nặng. Sang sông trót lọt, đi thêm hai ngày nữa thì Kim Yến sốt hầm hập và hôn mê. Đoàn cử người khiêng cáng đưa chị tới trạm phẫu tiền phương. Nhưng vì thuốc men hạn chế, nên các thầy thuốc ở đây đành bó tay. Anh em tiếp tục dò đường chuyển Kim Yến đến bệnh viện đa khoa của Mặt trận do bác sĩ Thúy Ba phụ trách. Gần 9 giờ đêm, cáng thương mới tới nơi. Song tất cả đà quá muộn. Nhiều ngày dầm mình trong mưa lạnh và lội nước đã khiến Kim Yến không giữ được cái bào thai. Do không có bác sĩ chuyên khoa sản, nên chị bị sót nhau rồi nhiễm trùng nặng. Nửa đêm hôm ấy, Kim Yến ra đi ở tuổi 25 mà không kịp trối lại một lời. Người chiến sĩ - nghệ sĩ đa tài ấy mất đi để lại niềm tiếc thương không gì bù đắp nổi trong lòng anh chị em của Đoàn Văn công Quân Giải phóng miền Nam.

Là phó bí thư chi bộ, nhạc sĩ Vũ Thành đề nghị phục hồi danh dự đoàn viên cho Kim Yến - Tiến Hiển, để chị ra đi được thanh thản. Cấp ủy nhất trí, chi bộ tán thành. Anh em trong đoàn gạt nước mắt đưa thi hài Kim Yến vượt sông Vàm Cỏ trở về đất mẹ Việt Nam. Để đánh dấu, mộ chị được đặt nằm cạnh một gốc cây khế gần cánh rừng Lò Gò, giữa bến Ra, bên dòng sông rì rầm ru hát. Sau ngày đất nước thống nhất, anh em đồng đội trở lại tìm mộ chị Kim Yến, nhưng cả khu vực đã bị bom Mỹ đào xới nát. Cho đến 34 năm sau (7/2003), hài cốt của chị mới được tìm thấy và đưa về Nghĩa trang Liệt sĩ Thành phố Hồ Chí Minh.

Người con gái sông Tiền, một nghệ sĩ tài hoa và anh dũng, với những vai diễn để đời, đã dâng hiến trọn tuổi thanh xuân cho Tổ quốc. Nhưng thật đáng buồn là cho đến nay, chị vẫn chưa hề được nhận bất kỳ một danh hiệu nào. Nhưng tên tuổi của chị mãi lưu danh cùng Đoàn Văn công Quân Giải phóng, một đạo quân nghệ thuật trên chiến trường. Vâng, chị là Nguyễn Thị Kim Yến!


[1]  Đám giỗ: Mật danh chỉ các cuộc họp quan trọng của Trung ương Cục, của Quân ủy Miền và của Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Sức quyến rũ của sự chân thành
16 giờ ngày 14.4.2024, Nhà xuất bản Hội Nhà văn tổ chức buổi gặp gỡ giao lưu giữa tác giả - Tiến sĩ Lê Kiên Thành (con trai cố Tổng bí thư Lê Duẩn)
Xem thêm
Sông chảy bên đời – Tuỳ bút của Nguyễn Thị Thu Thủy
Một đời người đã đi qua biết bao dòng sông, bao nhiêu ngã rẽ, khúc cua; mỗi dòng sông đều để lại bao luyến lưu, vương vấn, để lại những kí ức luôn tươi xanh mỗi khi nhớ về. Sông vẫn cứ chảy như thời gian trôi đi mải miết vì vậy “không ai tắm hai lần trên một dòng sông”.
Xem thêm
Rặng Diên Vĩ - Tản văn của Quốc Tuấn
Gió vẫn thổi, mái tóc thơm tuột khỏi giây buộc, quấn quanh đầu như vòng hoa nâu thẫm, vô tình quất bỏng môi người. Mùi hương đó, quen quá. Mùi tóc mẹ, hương quê vị quán. Tựa như làn nước lung linh, hơi thở chị uyển chuyển theo nhịp điệu không gian. Đôi mắt và đôi môi vẫn mỉm cười nhưng đã có chút tiếc nuối. Chính nỗi buồn ẩn chứa trên khuôn dung đã khiến chị trở nên hấp dẫn, pha lẫn sự hồn nhiên, ngây thơ tạo nên một tổng thể đẹp đến khó tin.
Xem thêm
Trần Bảo Định - Thú thưởng ngoạn văn chương qua tác phẩm “Đọc thơ bạn”
Có thể nói Trần Bảo Định là một hiện tượng văn học Việt Nam hiện đại: Chỉ trong vòng khoảng hơn 10 năm trở lại đây, từ khi về hưu anh đã cho ra đời 6 tập thơ, hơn 10 tập tản văn, truyện ngắn và 3 tập tiểu luận phê bình trong khi phải chống chọi với căn bệnh ung thư quái ác...
Xem thêm
Canh cá rô đồng – Tản văn của Châu Duyên
Tôi biết về món canh cá rô đồng đã lâu theo lời kể của cô bạn đang ở thành phố mang tên Bác, toàn những tin nhắn như là: Ê! Trưa nay tớ đang ăn canh cá rô đồng nè.
Xem thêm
Sài Gòn như nhà, như mẹ, như quê… – Tản văn của Triệu Vẽ
Ở Sài Gòn, không có ranh giới trọng khinh giữa dân “Sài Gòn” hay dân “tỉnh lẻ”, dân “phố” hay dân “phèn”. Trong huyết quản sâu xa của người Sài Gòn có ruộng đồng, bờ bãi, con trâu, con gà.
Xem thêm
Ơi mùa hoa ban! – Bút ký của Nguyễn Huy Bang
Chiếc máy bay VJ 299 từ Tân Sơn Nhất (sau 2 giờ 5 phút) bay qua không phận 3 nước.
Xem thêm
Tháng Ba hoa gạo – Tản văn của Bằng Lăng Tím
Đào phai, mai vàng là sự kì diệu của tháng giêng. Chúa của các loài hoa tháng ba chính là hoa gạo. Xuân sắp sửa đi qua, hạ lấp ló ở đầu ngõ. Hoa gạo đẹp theo nét riêng và tùy vào thời tiết. Hôm nào trời quang hoa đỏ thắm, ngời sắc trong khoảng không. Ríu rít đàn chim, lao xao ong bướm. Hoa như đốm lửa thắp sáng cả bình minh. Hôm nào sương dày đặc, nhìn hoa như ánh lửa đêm đông, lập lòe mang đến sự ấm áp lạ thường.
Xem thêm
Nhớ hoa đào - Tùy văn của Nguyễn Linh Khiếu
Mỗi năm khi sắp tết bao giờ mình cũng mua hoa đào. Hà Nội không có hoa đào làm sao gọi là tết. Dù là bích đào bạch đào hay đào phai thì hoa đào bao giờ cũng mang tết đến mỗi ngôi nhà thân thương. 
Xem thêm
Giữa những mùa hoa nở - Bút ký Nguyễn Xuân Thủy
Từ Yên Khương, thuộc huyện Lang Chánh chúng tôi đi theo đường tuần tra biên giới lên Đồn Biên phòng Bát Mọt, thuộc huyện Thường Xuân. Đường tuần tra biên giới chập chùng uốn lượn giữa núi non, len lỏi giữa màu xanh của rừng. Càng lên hướng Cửa khẩu Khẹo càng có cảm giác đang đi về nơi thâm sơn cùng cốc. Cũng đúng, Bát Mọt là tuyến cuối của dải biên giới xứ Thanh, nơi có cột mốc 378 là nơi tiếp giáp biên giới giữa Thanh Hóa và Nghệ An. Những nơi cuối đất cùng trời bao giờ cũng gợi cho người ta sự rưng rưng về những niềm thương nỗi nhớ.
Xem thêm
Lửa Cát Bi, ngọn trao truyền khí chất Hải Phòng
“Ơi Hải Phòng cửa biển quê hương/ Tổ quốc đang ghi những trang lịch sử/ Của Hải Phòng viết trên sóng bão Thái Bình Dương”. Với vị thế địa lý của Hải Phòng, trong suốt chiều dài lịch sử dựng nước và giữ nước, nơi đây luôn là miền đất tiền tiêu quan trọng, cửa ngõ chiến lược. Bởi kẻ thù thường tiến hành xâm lược Hải Phòng đầu tiên, lấy đó làm bàn đạp để đánh chiếm Thăng Long – Hà Nội. Khi thất bại, chúng cũng thường chọn Hải Phòng là một trong những tuyến đường rút chạy cuối cùng. Hải Phòng là địa phương luôn “đi trước về sau”, có vị trí xứng đáng, giữ vai trò quan trọng trong lịch sử chống ngoại xâm của dân tộc cũng như các cuộc kháng chiến của cách mạng Việt Nam, xứng đáng với danh hiệu “Thành phố Cảng trung dũng, quyết thắng”.
Xem thêm
Mùi Tết vương dấu chân xa – Tản văn của Đặng Tường Vy
Mỗi độ xuân về, người con xa xứ không tránh khỏi rưng rức, chạnh lòng. Nỗi nhớ trong lòng người tha hương rất lạ: sâu lắng, dịu dàng, chôn kín. Như gái đôi mươi thầm thương trộm nhớ một ai đó, âm thầm, mãnh liệt, nồng nàn,  tha thiết.
Xem thêm
Mùi hương thảo - Tản văn Quốc Tuấn
Chị mười tám, hay hai lăm tuổi. Tôi cũng chẳng biết và không cần biết, chỉ cần trong tôi đã bận lòng trước vẻ đẹp thuần khiết của loài cúc lam đồng thảo ấy. Nơi đáy mắt thể hiện những đốm lửa vui, những nét cong, nếp gấp mong manh nơi khóe miệng, bờ môi thể hiện sự phong phú nơi nhiệt tâm.
Xem thêm
Phép màu đã không đến với chị, chị Hồng Oanh ơi!
Chia sẻ của nhà văn Bích Ngân, Chủ tịch Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh
Xem thêm
Vào vườn hương
Thành phố Cần Thơ đất rộng người thưa không chỉ có gạo trắng nước trong để níu chân người và du khách bốn phương. Tây Đô còn là mảnh đất văn hiến với không hiếm những trang anh hùng hào kiệt yêu nước và nghệ sĩ phong lưu tài hoa nhân cách. Kế thừa truyền thống văn chương của Phan Văn Trị, Bùi Hữu Nghĩa, Huỳnh Mẫn Đạt … và các bậc văn nghệ sĩ đàn anh: Kiều Thanh Quế, Lưu Hữu Phước, Hoài Sơn, Mai Văn Bộ, Trần Kiết Tường, …đã có không ít thế hệ đàn em kế thừa xứng đáng trên lĩnh vực văn học nghệ thuật.
Xem thêm
Suy ngẫm về “chữ” của “một thời vang bóng”_ Tản mạn của Quốc Tuấn
Người xưa, dẫu không biết chữ nhưng khi thấy một mẫu giấy có vết mực sẽ lượm lên, mang về cất giữ. Điều đó thể hiện sự “sùng chữ” (trân trọng giá trị của văn chương, chữ nghĩa) của ông cha. Những người không biết chữ đã biết đối xử với con chữ bằng tấm lòng trân quý như thế, thì dễ hiểu các trí giả đời trước họ sống với chữ nghĩa sâu sắc đến độ nào.
Xem thêm
Má tôi
Bài đăng báo Người Lao động Xuân Giáp Thìn 2024
Xem thêm
Xuân yêu thương - Tết sum vầy
Phút giao thừa, nhìn ngắm dòng người “tống cựu”, “nghinh tân”, cảm nhận trong mắt mỗi người lấp lánh ánh nhìn hạnh phúc, nhất là khi trên bầu trời đêm pháo hoa rực rỡ...
Xem thêm
Ngày cuối năm... - Tản văn Lê Thiếu Nhơn
Kẻ tha phương dù mải mê danh lợi cũng bất giác bần thần trước mênh mông tiếng gọi quê nhà ngày Tết. Tháng Chạp bao giờ cũng vội vàng trong mắt kẻ tha phương. Tháng Chạp bao giờ cũng hấp tấp trong lòng kẻ tha phương. Vì vậy, càng nhiều tuổi, tôi càng thấy sốt ruột khi thời gian nhích dần vào khoảnh khắc tất niên mà mình chưa kịp trở về ngôi nhà thơ ấu.
Xem thêm