TIN TỨC
  • Góc nhìn văn học
  • Nhà thơ Đỗ Trung Lai: Phải rất sâu sắc mới có thể viết cho trẻ con

Nhà thơ Đỗ Trung Lai: Phải rất sâu sắc mới có thể viết cho trẻ con

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-10-02 15:40:26
mail facebook google pos stwis
4097 lượt xem

Sau bài viết Đỗ Trung Lai - “Cả thế giới quàng khăn quàng đỏ” trên chuyên mục này kỳ trước, bạn đọc rất hào hứng với những câu chuyện xung quanh bài thơ Nếu trái đất thiếu trẻ con (SGK Tiếng Việt 5), cũng như những sáng tác cho thiếu nhi của nhà thơ "Êm êm một khúc sông Cầu" (trích Đêm sông Cầu - thơ Đỗ Trung Lai - được Phan Lạc Hoa phổ nhạc thành Tình yêu trên dòng sông Quan họ).

Như sự khẳng định một chân lý vĩnh cửu rằng trẻ em là tương lai của nhân loại, của mỗi dân tộc, mỗi gia đình… bài thơ Nếu trái đất thiếu trẻ con của nhà thơ Đỗ Trung Lai ra đời nằm chính ở ý niệm đó.

Như bài viết kỳ trước đã nêu, Nếu trái đất thiếu trẻ con được sáng tác năm 1983, nhân một lần nhà thơ Đỗ Trung Lai xem buổi triển lãm tranh vẽ của thiếu nhi TP.HCM trong khuôn khổ Liên hoan Thanh niên hữu nghị Việt - Xô, cùng với anh hùng phi công Leonid Popov - nhà du hành vũ trụ Liên Xô. Bài thơ được in trong sách Tiếng Việt 5 (tập 2) cho đến nay đã trải qua gần 40 năm nhưng những thông điệp về trẻ em vẫn vẹn nguyên giá trị trong từng câu chữ.

Nhà thơ Đỗ Trung Lai

“Không có trẻ con, mọi việc làm của người lớn đều… vô nghĩa”
 

Trong cuốn Công việc làm thơ xuất bản năm 1984, tổng kết kinh nghiệm gần một đời làm thơ của mình, Xuân Diệu viết: “Làm thơ, khó nhất là tìm tứ”. Ấy vậy mà cái tứ xuất hiện trong thơ Đỗ Trung Lai lại hết sức tình cờ, ví như trong bài thơ Nếu trái đất thiếu trẻ con. Nảy ra tứ thơ từ cuộc đi xem tranh của các cháu thiếu nhi, Nếu như trái đất thiếu trẻ con vì thế cũng được viết một cách tường minh, chỉ cần đọc là hiểu ngay, hiểu hết, hiểu tường tận.

Bài thơ dễ đọc, dễ hiểu với lời thơ là cuộc đối thoại của 2 nhân vật “tôi” và “anh”. Trong đó, nhân vật tôi chính là tác giả - nhà thơ Đỗ Trung Lai - còn nhân vật anh là Leonid Popov - “phi công vũ trụ 2 lần anh hùng Liên Xô”. Cuộc đối thoại xoay quanh những bức tranh vẽ ngộ nghĩnh đến kỳ quặc của các bạn nhỏ khiến những vị khách đi từ ngạc nhiên này đến bất ngờ khác. Đó là những bức tranh mà đầu của phi công vũ trụ Popov rất to, “đôi mắt chiếm nửa già khuôn mặt” và trong đó có “một nửa số sao trời”; những chú ngựa xanh nằm trên cỏ, ngựa hồng phi trong lửa; cả thế giới đều quàng khăn đỏ; các anh hùng như những đứa trẻ lớn hơn…

Trong bài thơ này, tác giả khéo ở chỗ, đặt để sự mô tả những bức tranh ngộ nghĩnh đến “ghê gớm” trong sự ngạc nhiên, thích thú của nhân vật “anh” chính là phi công Popov. Qua sự mô tả chi tiết các nét vẽ của các em nhỏ để thấy được những nét ngây thơ, đáng yêu, sự thông minh, giàu trí tưởng tượng của trẻ em. Để rồi trong đoạn cuối bài thơ, tác giả đưa ra khẳng định: “Ngộ nghĩnh là các em/ Sáng suốt là các em”.

Bài thơ “Nếu trái đất thiếu trẻ con” của nhà thơ Đỗ Trung Lai in
trong sách giáo khoa “Tiếng Việt 5” (tập 2)

Theo nhà thơ Đỗ Trung Lai, việc mô tả chi tiết những bức tranh của thiếu nhi ở phần đầu chỉ là cái cớ để đưa thông điệp cốt yếu nhất của bài thơ một cách sinh động và thuyết phục, nằm chính ở 3 câu thơ cuối: “Nếu trên trái đất này, trẻ con biến mất/ Thì bay hay bò/ Cũng vô nghĩa như nhau”. “Ý nghĩa và thông điệp của bài thơ dồn nén tất cả trong câu cuối. Câu cuối nói lên tất cả. Trẻ con là mầm sống của nhân loại, là tương lai của nhân loại, thế nên trên thế giới mới có câu, tất cả những thứ tốt nhất phải dành cho trẻ con. Nếu trái đất mà không còn trẻ con nữa thì mọi việc của người lớn là vô nghĩa, chẳng để làm gì” - nhà thơ Đỗ Trung Lai chia sẻ.

Không chỉ riêng nhà thơ Đỗ Trung Lai mới khẳng định vị trí quan trọng của trẻ em trong sự phát triển của nhân loại, nhà thơ Trương Vĩnh Tuấn trong bài thơ Lời của bé cũng có những nhận định tương tự qua lời thơ: “Người là hoa đất/ Bé là hoa người/ Có bé cuộc đời / Trẻ như lời bé”. Rõ ràng, việc khẳng định trẻ con là tương lai của nhân loại là một sự thật không thể phủ nhận.

Nhấn mạnh điều này, nhà thơ Đỗ Trung Lai nói thêm: “Đó là một chân lý vĩnh cửu, đời nào cũng vậy. Như người phương Đông vẫn có quan niệm sâu sắc rằng: Nếu anh tuyệt tự là vô phúc hạng nhất, không trẻ con tức là không người nối dõi. Trong đời sống hiện đại từ phương Đông đến phương Tây quan niệm về việc sinh con nối dõi có thể phai nhạt dần, song chân lý trẻ con là tương lai của loài người, của nhân loại, của mỗi một dân tộc, của mỗi một gia đình, của mỗi một dòng họ là vĩnh cửu, không thay đổi”.

Không cầu kỳ, kiểu cách trong lời thơ, không cố cài cắm những triết luận trong ý tứ, Nếu trái đất thiếu trẻ con của nhà thơ Đỗ Trung Lai hiển hiện một chân lý không ai có thể chối bỏ. “Dù xưa hay dù nay, dù Đông hay dù Tây thì lúc nào tuổi trẻ, đặc biệt là trẻ con vẫn là tín hiệu cho thấy rất rõ triển vọng tương lai của nhân loại, của mỗi một quốc gia, dân tộc. Vì tương lai không nằm ở người già” - nhà thơ nhấn mạnh.

Bài thơ “Đêm sông Cầu” trong tập thơ cùng tên đánh dấu sự nghiệp sáng tác
“đoản thi” của nhà thơ Đỗ Trung Lai

Viết cho thiếu nhi phải giản dị nhưng không đơn giản
 

Tuy không phải là nhà thơ sáng tác nhiều cho trẻ con. Song những tác phẩm thơ, truyện thơ của nhà thơ Đỗ Trung Lai dẫu chỉ thấp thoáng yếu tố thiếu nhi nhưng lại hết sức sâu sắc với nhiều tầng nghĩa. Từ bài thơ Nếu trái đất thiếu trẻ con chứa đựng cả một chân lý vĩnh cửu cho đến những bài thơ viết riêng tặng con gái, nhà thơ Đỗ Trung Lai đều dồn nén vào trong từng câu chữ những ý niệm sâu sắc mà hiếm có một nhà cầm bút nào có thể đặt để khéo léo như ông.

Ví như trong bài thơ Tôi ru con gái tôi chỉ là lời ru con gái thôi cũng thấm đẫm lẽ sống, nỗi đời: “Đừng ham ngũ sắc làm chi/ Trời xanh muôn thuở có gì cũ đâu/ Đò đầy, phá rộng, sông sâu/ Có qua thì lúc bạc đầu hãy qua…”. Gửi vào thơ nhiều lớp nghĩa thế nhưng thơ Đỗ Trung Lai không mất đi vẻ tự nhiên mà dễ dẫn dụ cảm xúc của người đọc, chạm đến tầng sâu của tâm tưởng.

Xưa nay dù là viết thơ hay viết văn xuôi cho thiếu nhi luôn là một thách thức đối với người lớn. Bởi thế, văn đàn lâu nay vắng bóng những tác phẩm văn học thiếu nhi có chất lượng. Muốn viết cho thiếu nhi hay, đơn giản, dễ hiểu thôi chưa đủ, cần phải có thêm cả sự sâu sắc. Bàn luận về điều này, nhà thơ Đỗ Trung Lai cho rằng: “Viết cho trẻ con không có nghĩa là bắt chước giọng trẻ con, bởi như vậy không làm được. Trẻ con nói ngộ nghĩnh, dù bắt chước được trong thơ văn nhưng ý nghĩa đem lại không sâu. Phải rất sâu sắc mới có thể viết cho trẻ con, làm sao giản dị nhưng không đơn giản, giản dị để trẻ con hiểu nhưng rất sâu sắc thì không đơn giản”.

Qua quan sát và đọc, tác giả của bài thơ Nếu trái đất thiếu trẻ con cũng cho rằng nhiều tác phẩm viết cho thiếu nhi hiện nay là “chuyện người tốt, việc tốt, viết theo kiểu dạy dỗ” mà không có được nhiều ý nghĩa sâu sắc. Dẫn ra những tác phẩm văn học viết cho thiếu nhi hay, có giá trị, nhà thơ cho rằng: “Viết cho thiếu nhi tôi thấy Dế mèn phiêu lưu ký là tuyệt hay, chứa đựng nhiều ý nghĩa. Thêm một tác phẩm hay khác là truyện Lá cờ thêu 6 chữ vàng của Nguyễn Huy Tưởng viết về Trần Quốc Toản không hề giọng trẻ con”.

Hay những tác phẩm như Không gia đình của nhà văn Pháp Hector Malot; Những tấm lòng cao cả của nhà văn người Italy Edmondo De Amicis cũng đều là những tác phẩm viết về đề tài thiếu nhi được xếp vào hàng kinh điển trên thế giới.

Thể nghiệm sự viết cho thiếu nhi với nội dung sâu sắc trong vỏ bọc của sự đơn giản, dễ hiểu, nhà thơ Đỗ Trung Lai từng có một tác phẩm truyện thơ dài đến 2 trang đăng trên báo Văn nghệ với tựa đề Chú bé trốn học và cây cột điện. Dù có ít ỏi những tác phẩm viết cho thiếu nhi song không thể phủ nhận, thơ viết cho trẻ con của nhà thơ Đỗ Trung Lai luôn ẩn tồn những giá trị ở tầng sâu tư duy được “cấy trổ” một cách khéo léo trên bề mặt ngôn ngữ tường minh, hợp giọng trẻ thơ.

Những tác phẩm đã xuất bản của Đỗ Trung Lai
Nhà thơ Đỗ Trung Lai vào Hội Nhà văn Việt Nam 1991, ông đã xuất bản các tác phẩm: Đêm sông Cầu (1990), Anh em và những người khác (1990), Người chơi đàn Nguyệt ở Hàng Châu (truyện ngắn và ký, 2000), Lý Bạch - Những bài Đường thi nổi tiếng (2008), Đỗ Phủ - Những bài Đường thi nổi tiếng (2008), Bạch Cư Dị - Những bài Đường thi nổi tiếng (2008), 100 nhà thơ Đường (2013), Ơ thờ ơ (2013), Kể chuyện rong về những ngày có giặc (trường ca, 2015), Tụng lục bát (trường ca, 2017), Trúc Lâm Tam Tổ thi (2016).

Công Bắc (https://thethaovanhoa.vn)

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà văn Phương Huyền: Khuyến đọc cũng là một phần trách nhiệm của nhà văn
Trong khuôn khổ Ngày Sách và Văn hóa đọc năm 2024, Sở TT-TT TPHCM đã công bố 10 Đại sứ Văn hóa đọc TPHCM nhiệm kỳ 2024-2025, trong đó có nhà văn Phương Huyền - người có nhiều hoạt động khuyến đọc trong thời gian qua. Báo Sài Gòn Giải Phóng đã có cuộc trò chuyện cùng chị.
Xem thêm
Một bút pháp mới lạ qua truyện ngắn Khai khẩu
Nguồn: Báo Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
GS Mai Quốc Liên – Người đất Quảng cương trực
Tôi gặp GS-TS Mai Quốc Liên tại nhiều sự kiện của Hội Nhà văn Việt Nam và Hội đồng Lý luận, Phê bình văn học nghệ thuật Trung ương. Trong các cuộc họp, mỗi khi đăng đàn, ông sang sảng chất giọng Quảng đậm đà, khảng khái, thẳng thắn, thậm chí có lúc tranh luận khá gay gắt, chẳng cần rào trước đón sau, mà cũng chẳng ngại va chạm, có thể hơi làm “nghịch nhĩ” ai đó, nhưng tư duy logic, liên tưởng, liên kết các vấn đề mạch lạc. 
Xem thêm
Để thơ không “thất lạc nhau” nữa
Nguồn: Tuần báo Văn nghệ số 9/2024
Xem thêm
Nhà thơ Nguyễn Quang Thiều: 350.000 tỉ đồng chấn hưng văn hóa vẫn là con số rất ít
Chiều 29.02 phát biểu tại buổi gặp mặt giữa Chủ tịch nước Võ Văn Thưởng cùng lãnh đạo Đảng, Nhà nước với trí thức, nhà khoa học, văn nghệ xuân Giáp Thìn 2024, Chủ tịch Hội Nhà văn Nguyễn Quang Thiều đã dành thời gian nói về vấn đề xây dựng văn hóa.
Xem thêm
Quyển sách là chữ nghĩa...
Quyển sách là chữ nghĩa. Mà chữ nghĩa của một quyển sách phải kết hợp vừa từ trí tuệ vừa từ trái tim.
Xem thêm
Nhà thơ Từ Quốc Hoài để lại “Khu vườn kí ức”
Từ Quốc Hoài, đến với thơ ca khá sớm. Ông là nhà thơ cùng thời với những tên tuổi quen thuộc: Trần Vũ Mai, Thanh Quế, Thanh Thảo, Phạm Tiến Duật, Hữu Thỉnh… cũng từng vào chiến trường khói lửa. Nhưng với con đường thơ ca, ông bước chậm, thận trọng, dè dặt. Cho tới tuổi hơn 80 ông chỉ cho ra mắt độc giả sáu tập thơ. Tập thơ thứ 5, “Sóng và khoảng lặng” (2010) đoạt giải thưởng văn học của Hội Nhà văn Việt Nam. Kỹ tính, khó tính (trong thơ và có lẽ cả trong cuộc sống), trăn trở, tìm tòi nên thơ Từ Quốc Hoài không lẫn, tự do, phóng khoáng, lần dò khám phá chiều sâu nội tâm.
Xem thêm
Im lặng- ngôn ngữ đặc biệt của văn chương
Nhà văn đoạt giải Nobel Văn chương 2023 – Jon Fosse vừa có một buổi gặp gỡ và đọc diễn từ của mình tại Oslo
Xem thêm
Quyền lực thơ ca và quyền uy thi sĩ
Bài đăng báo Văn nghệ của nhà văn Bích Ngân; Thơ và ảnh của nhà thơ Nguyên Hùng...
Xem thêm
Nhớ Nguyễn Đình Thi: “Một chút trắng hồng dào dạt vàng”
Bài viết của nhà báo Nguyễn Thế Khoa nhân 99 năm ngày sinh nhà văn hóa lớn Nguyễn Đình Thi ,20/12/1924-20/12/2023
Xem thêm
Nguyễn Du bàn về sáng tác văn chương
Bài viết rất bổ ích của nhà thơ Vương Trọng
Xem thêm
Thử nêu cách chữa “chứng lười đọc sách” – Tác giả: Nhà văn Nguyễn Khắc Phê
“Dạy con từ thuở còn thơ”; “Uốn cây phải uốn khi non”… là những điều ai cũng biết, nhưng đã có những thời đoạn do bận rộn mưu sinh và vô số sự xô đẩy, lôi kéo khác nữa, nên rất nhiều người và gia đình đã quên hoặc sao nhãng bài học giản dị và chí lý đã có tự cổ xưa. Có phải những biểu hiện tha hóa trong xã hội hiện nay chủ yếu bắt nguồn từ đó? Thiết nghĩ, cuộc vận động sáng tác văn học hướng đến lớp trẻ và thiếu nhi do Hội Nhà văn Việt Nam phát động đầu năm 2022 là một hoạt động thiết thực của văn giới nhằm góp phần chấn hưng đạo đức xã hội nói chung và góp phần bồi đắp tâm hồn cho lớp trẻ nói riêng.
Xem thêm
Làm mới cải lương – con dao hai lưỡi
Gần đây, cải lương được đưa lên mạng với một số hình thức mới: kết hợp rap, trang phục ma mị… Nhiều người cho rằng cải lương cần phải được “làm mới” để phù hợp với thời đại, với lớp trẻ. Nhưng làm mới cách nào để không bị mất chất, để người xem vẫn còn “nhìn ra” cải lương là câu hỏi không dễ giải đáp.
Xem thêm
“Vua phóng sự” Vũ Trọng Phụng làm gì khi cuốn sách về gái điếm bị đá vào xó tường?
Nguyễn Vỹ lặng lẽ đưa mũi giày đá luôn quyển “Lục Xì” vào trong xó tường. Quyển sách vừa xuất bản, hãy còn mới tinh, nằm xơ xác bên chân tủ.
Xem thêm
Văn học dân gian Đồng Nai trong bối cảnh văn học dân gian Nam Bộ từ 1945 đến nay
Công tác sưu tầm và in ấn các tuyển tập văn học dân gian Việt Nam nói chung đã được các nhà Nho thực hiện từ cuối thế kỷ XVIII với các sưu tập bằng chữ Nôm, chữ Hán. Sang đến cuối thế kỷ XIX và đầu thế kỷ XX, cùng với sự phổ biến của chữ quốc ngữ thì các sưu tập văn học dân gian được phát hành phổ biến nhiều hơn nữa. Tuy nhiên trong giai đoạn này phần lớn vẫn là các sưu tập miền Bắc hay ở một số tỉnh thành miền Trung, ở Nam Bộ việc sưu tầm và phổ biến văn học dân gian dưới dạng các tuyển tập in ấn vẫn còn chưa được coi trọng đúng mức, do vậy không gian nghiên cứu văn học dân gian vùng miền cũng đồng thời bị bỏ ngỏ.
Xem thêm
Nhà thơ thì chơi với ai?
Nguồn: Website Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm