TIN TỨC

Nhà thơ Nguyễn Văn Mạnh tìm dấu thời gian xa làng Gạo

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-08-27 11:47:28
mail facebook google pos stwis
1181 lượt xem

LÊ THIẾU NHƠN

Nhà thơ Nguyễn Văn Mạnh ngoảnh lại tháng ngày rời khỏi làng Gạo chôn nhau cắt rốn ở Hải Phòng, bằng nhiều tâm tư gửi gắm trong tập thơ ‘Dấu thời gian’.


Nhà thơ Nguyễn Văn Mạnh.

 

Nhà thơ Nguyễn Văn Mạnh có nhiều năm tung hoành trong hai lĩnh vực báo chí và pháp luật, trước khi đến với thi ca. Sau tập thơ “Miền hoa phượng”, nhà thơ Nguyễn Văn Mạnh biết cách tung tẩy chữ nghĩa hơn trong tập thơ “Dấu thời gian” vừa được Nhà xuất bản Hội Nhà văn ấn hành.

Vốn sống trải nghiệm và kỹ năng quan sát trở thành hành trang sở trường để ông viết những vần điệu day dứt thời cuộc, như một lần “Về quê” ngậm ngùi “Lợi danh thành khói hư không/ Thả hồn theo cánh gió đồng bao la”.

Bước đi từ làng Gạo (xã Hiệp Hòa, huyện Vĩnh Bảo, Hải Phòng) nhà thơ Nguyễn Văn Mạnh đã đến nhiều nơi, đã gặp nhiều người. Thế nhưng, thành phố hoa phượng đỏ vẫn tích tụ và nhen nhóm cảm hứng mạnh mẽ nhất cho thơ ông. Xoay hướng nào và nhìn phía nào, ông cũng thấy mảnh đất chôn nhau cắt rốn luôn trào dâng vui buồn không dễ nguôi ngoai. Vì vậy, hình ảnh chủ đạo trong thơ Nguyễn Văn Mạnh là nhịp thở Hải Phòng, vừa dữ dội vừa bình yên, vừa náo nhiệt vừa mộng mị.

Hải Phòng tràn vào thơ Nguyễn Văn Mạnh những bóng dáng riêng tư. Đó là một đảo xa giăng mắc xao động “Cát Bà nhỏ như chiếc cúc/ Trên mình đất nước ngàn năm/ Tiếng reo một thời thắng giặc/ Còn treo đầu sóng vang lừng/… Tụ lửa của lòng dân biển/ Thắp lên ngọn đuốc ven trời”.

Đó là một mái trường bồi hồi kỷ niệm chìm khuất “Nơi phượng vĩ châm lửa vào giấy trắng/ Đại dương thầm thì vẫy gọi ở xa xôi”.

Đó là những màu sắc trắng, nâu, vàng chen lẫn choáng ngợp của một bức tranh đô thị bên bờ sóng bộn bề: “Hải Phòng của những ngày đổi gió/ Cánh cò bay trắng cả triền đê/ Người áo nâu khơi dòng phù sa đỏ/ Dệt những thảm vàng lấp lánh đồng quê”.

Nhà thơ Nguyễn Văn Mạnh chú trọng chi tiết, và luôn chủ động gom nhặt thật nhiều chi tiết cho mỗi bài thơ. Ưu điểm ấy khiến độc giả có sự thú vị được dự phần cùng ông khám phá thế giới xung quanh. Tuy nhiên, khi và chỉ khi những chi tiết tương tác nỗi bịn rịn hay niềm chua xót, thì mới có thể bật ra câu thơ lay động người đọc.

Đôi lần, ông nhúng chi tiết vào miền day dứt để bái vọng chân dung người cha gánh vác không ít khổ đau: “Tiếng rít điếu cày như quất vào đêm/ Khói thuốc phả vào sương mù mịt/ Ổ rơm mỏng, tấm chăn đơn rách/ Cha lặng im trong hun hút gió lùa”, hoặc ông nhúng chi tiết vào cõi mơ màng để phát hiện gạch nối giữa ánh trăng và hồ sen có phút giây xao xuyến “Con cá chép ngẩng đầu nghe kinh/ Lời giáo huấn rụng đầy mặt biếc”.


Tập thơ "Dấu thời gian" do Nhà xuất bản Hội Nhà Văn ấn hành.

Thơ Nguyễn Văn Mạnh có ý thức né tránh những đong đưa thù tạc, mà ưa chuộng những suy tư lắng đọng. Ở nghĩa địa làng buổi chiều, ông thảng thốt trước nhân sinh vô thường: “Kiếp phù du ngỡ như không/ Chẳng tan hóa hết chất chồng đắng cay/ Trăm ngàn duyên nợ trả vay/ Để trên mặt đất găm đầy chân mưa”. Còn đứng trước sóng gió biển Đông cồn cào, ông trầm ngâm trước thái độ thét gào tham vọng chiếm hữu vô cớ: “Gửi câu hỏi này vào Thái Bình Dương/ Rằng đã có ai tìm ADN cho biển/ Trái tim tôi âu lo thắc thỏm/ Sao câu trả lời vẫn cứ ở mênh mông”.

Mặc dù chưa đủ mềm mại và lắt léo, mảng thơ tình của Nguyễn Văn Mạnh vẫn đắn đo nhiều giải pháp để tỏ bày tơ vương. Bài thơ “Chiều Chi Lăng em hát” cơi nới thẩm mỹ “Đá như mềm đi trong không gian tẩm mật/ Em hóa vầng trăng hiền dịu giữa chiến hào”, hoặc bài thơ “Lỡ hẹn” xoa dịu trách móc “Nâng tay đội nón cho chiều/ Không em chỉ thấy bao nhiêu gió đùa”.

Trong tập thơ “Dấu thời gian”, nhà thơ Nguyễn Văn Mạnh xác tín sự thật khá ung dung để ôm ấp hoài vọng trìu mến. Dù sòng phẳng “Nghĩ trước cổng chùa” hiện trạng đầy băn khoăn “Hình như Phật bỏ về trời/ Ở đây toàn sư gõ mõ” thì ông không do dự dành một góc trân trọng cho sự tử tế bất tận: “Vẫn cảm tạ những gì không vĩnh viễn/ Những biến hóa tụ tan giữa cõi vô thường/ Những phút cởi lòng mở gió yêu thương/ Những năm tháng hồn nghẹn ngào uất hận”.

Nguồn: https://nongnghiep.vn/

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm