TIN TỨC

Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng và giải thưởng trong lòng bạn đọc

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-09-25 16:20:04
mail facebook google pos stwis
1767 lượt xem

NGUYỄN TRƯỜNG

Phần đông các nhà văn viết khỏe lúc còn trẻ hoặc giai đoạn trung niên, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng lại viết khỏe, cho ra đời 2 kịch bản phim nhựa là “Giai điệu xanh” và “Bài hát đâu chỉ là nốt nhạc” phim được công chiếu, đình đám một thời cùng 5 cuốn tiểu thuyết hay nhất của ông ở tuổi ngoài 70, trong lúc bệnh gout, rồi di chứng bệnh đột quỵ…hành hạ làm ông khốn khổ.

Sáng ngày 15 tháng 6 năm 2020, chúng tôi đến thăm nhà văn Nguyễn Khoa Đăng tại phường 2, quận Gò Vấp, thành phố Hồ Chí Minh. Nhà văn đã yếu, không tự ngồi dậy được. Một người vốn to cao, khỏe khoắn, nhanh nhẹn, luôn nói cười ồn ào đâu rồi? Nằm trên giường là một ông lão gầy gò, hai cẳng chân như hai ống giang, râu tóc phờ phạc. Ông vẫn còn tỉnh táo nhận ra chúng tôi. Nhưng muốn tiếp chuyện tôi phải ghé sát tai vào ngực để nghe ông thều thào, vẫn là hỏi thăm về gia đình tôi, bạn bè văn chương… Bỗng ông thở gấp, ngực phập phồng, vẻ đau đớn, ra hiệu cho vợ ông vuốt ngực, đấm nhẹ lên người, có lẽ ông xúc động có bạn văn đến thăm chăng? Nhìn vợ nhà văn chăm sóc cho chồng tôi lại bồi hồi. Bà đã ngoài bảy mươi rồi, mấy năm nay luôn túc trực chăm sóc cho ông từ tắm giặt đến chén cơm, viên thuốc. Đúng là “Con nuôi cha không bằng bà nuôi ông”, chỉ đến khi ta già yếu rồi mới cảm được nghĩa của tình chồng vợ. Thế mà cách đây khoảng hơn chục năm nhà văn Nguyễn Khoa Đăng cho xuất bản cuốn tiểu thuyết “Mây chiều bảng lảng” giống như là tự thuật về cuộc đời mình. Cái lão Thổ Trì, ngoài sáu mươi rồi, vợ con đùm đề còn đi ngoại tình, mà có lần nào lão chủ động đâu, toàn người ta tấn công cả. Có người còn trẻ, bằng tuổi con gái lão.Tất nhiên là vợ lão ghen, sóng gió gia đình nổi lên. Cuộc sống gia đình lão như trong địa ngục. Cô Bé Hai ấy vẫn chung thủy chờ lão, cuối cùng vợ lão cũng ký giấy ly hôn, giải phóng cho lão, nhưng lão vẫn không làm chủ được cuộc đời mình. Cái tuổi xế chiều đi tìm lại hạnh phúc cho mình mới muộn màng, mới bi kịch làm sao! Đúng như cô nhân tình Bé Hai đã nhắn nhủ lão: “Kỳ này đi hay đứng, nhớ phải dứt khoát đấy. Có là mây cũng mây chiều rồi. Đừng bảng lảng nữa”. Oái oăm thay đó là tiểu thuyết nhưng sao nó giống chuyện ngoài đời của tác giả đến thế. “Ớt nào mà ớt chẳng cay”. Thói thường là thế nhưng nay thấy bà chăm ông thì biết, bà yêu ông lắm, yêu mới ghen. Chỉ tại ông viết hay quá, bịa cứ như thật, ai mà chả tin! Hai ông bà gắn bó với nhau đã hơn nửa thế kỷ, từ ngày họ còn là giáo viên cùng trường. Đến lúc ông về già bắt đầu sinh bệnh, khổ nhất là bệnh gout, làm chân ông sưng đỏ tấy, “đau như thống phong” quả không sai, nó làm ông khổ sở, nhưng bởi yêu văn học, ông vẫn nghiến răng viết, say sưa có lúc quên cả đau. Rồi ông bị huyết áp cao, dẫn đến đột quỵ, may mà qua khỏi được, nhưng di chứng làm ảnh hướng đến tư duy ít nhiều.

Cuộc đời nhà văn Nguyễn Khoa Đăng có nhiều cái lạ lắm. Hồi dạy học ở Thái Bình, sở trường là văn học, nhưng ông lại xin sang dạy toán và sinh vật cũng vì qúa ngưỡng vọng đến “nàng văn”, chỉ sợ không đủ tài hiểu thấu lòng nàng, sợ nàng buồn, nên chỉ “kính nhi viễn chi”. Rồi khi vào Kiên Giang, đang làm Phó chủ tịch Hội Văn nghệ thì được chủ tịch tỉnh chỉ định ông tham gia Hội thẩm đoàn, làm luật sư bào chữa tại tòa hình sự mặc dù ông không qua ngành luật. Chỉ tại người ta thấy ông nói năng khúc triết, mạch lạc, lập luận logic, hiểu sâu về luật pháp. Cả hai việc trái nghề trên ông đều tỏ ra xuất sắc, dạy sinh vật thì chuyển những phần quan trọng sang văn vần ra làm cho học sinh dễ nhớ, thêm yêu thích môn học; làm “thầy cãi” có khi đem cả thơ Hồ Xuân Hương ra làm lập luận bào chữa. Ông “luật sư” bất đắc dĩ này đã dự 216 phiên tòa hình sự, bào chữa thành công cho rất nhiều thân chủ, phần đông họ là những người nghèo, được ông giúp đỡ một cách vô tư, làm cho dân Kiên Giang yêu mến và biết ơn. Lúc trẻ thì ông nổi tiếng bởi thơ thiếu nhi, nhất là bài thơ “Em đi giữa biển vàng”. Bài thơ nhí nhảy, hồn nhiên hợp với lứa tuổi thiếu nhi: “Em đi giữa biển vàng/ Nghe mênh mang trên đồng lúa hát/ Hương lúa chín thoang thoảng bay/ Hương lúa trĩu trong lòng tay/ Như đựng đầy mưa gió nắng/ Như mang nặng giọt mồ hôi/ Của bao người nuôi lúa lớn lúa ơi…”. Bài thơ in trên báo Tiền Phong năm 1966 nổi tiếng đến nỗi nhiều người cứ nhầm ông với thần đồng thơTrần Đăng Khoa, ông bèn đổi tên thật Nguyễn Đăng Khoa thành Nguyễn Khoa Đăng. Bài thơ trên được nhạc sĩ Bùi Đình Thảo phổ nhạc, các em nhỏ yêu thích, được phát liên tục trên đài phát thanh, trên truyền hình, đặc biệt là trong chương trình “Giai điệu tự hào” được hội đồng bình luận hết lời khen ngợi, đánh giá rất cao. Năm 2000 bài hát được bình chọn trong top 50 bài hát viết cho thiếu nhi hay nhất thế kỷ XX. Khi về già ông lại nổi tiếng bởi giữ chuyên mục “Gỡ rối tơ lòng” dành cho lớp trẻ trên tạp chí. Lúc đã ngoài 70 tuổi ông lại là diễn viên thứ chính xuất hiện liên tục trong bộ phim truyền hình “Lấy chồng Hàn” dài đến 30 tập. Phần đông các nhà văn viết khỏe lúc còn trẻ hoặc giai đoạn trung niên, Nguyễn Khoa Đăng lại viết khỏe, cho ra đời 2 kịch bản phim nhựa là “ Giai điệu xanh” và “Bài hát đâu chỉ là nốt nhạc” (Xí nghiệp phim Tổng hợp thành phố Hồ Chí Minh sản xuất) phim được công chiếu, đình đám một thời cùng 5 cuốn tiểu thuyết hay nhất của ông ở tuổi ngoài 70, trong lúc bệnh gout, rồi di chứng bệnh đột quỵ…hành hạ làm ông khốn khổ. Trong 5 cuốn tiểu thuyết cuối đời của ông, lại chủ yếu viết về quê hương ông, thời cải cách ruộng đất, tranh chấp đất đai… Như “Ngõ tre rì rào”, “Khúc tâm tình bi tráng”, “Nước mắt một thời”. Nhà văn Bút Ngữ dẫn lại bài của Nhà giáo Biên Linh viết về “Ngõ Tre rì rào” đăng trên báo Bình Phước như sau : “Cuốn sách gần 200 trang đưa người đọc về với cuộc sống của người dân một làng quê Bắc Bộ những năm chống Mỹ cứu nước, với những con người hiền lành nhân hậu, sống yêu thương trong đạo lý làm người…bắt đầu từ những sự kiện có thật trong gia đình mình, quê mình để khái quát thành câu chuyện của bao số phận, hiện thực bi thương của đất nước của dân tộc trong chặng đường lịch sử đã qua. Nhà văn đã lần theo dòng chảy của những năm tháng chống Mỹ, tựa vào sự kiện lịch sử, sự thật của cuộc sống và dồn những tình cảm xót thương của mình để viết nên những trang văn thật ám ảnh và da diết…Tiểu thuyết “Ngõ tre rì rào” là một khúc tâm tình bi tráng. Tác phẩm không dừng lại ở mức độ phản ánh hiện thực, mà đã chuyển tải sự thực lịch đến với người đọc bằng cảm xúc máu thịt, bằng tài năng nghệ thuật của người cầm bút, đã nâng giá trị của tác phẩm đến với ý nghĩa và giá trị lớn hơn. Đó là làm sống lại lịch sử, sống dậy những tâm hồn, những lẽ sống cao đẹp. Quả là lịch sử đã đi qua, nhưng văn chương còn mãi mãi”. Còn Bình về tiểu thuyết “Hoàng hôn lạnh”, nhà thơ Lê Thiếu Nhơn viết: “ Lòng tin vẫn gửi ở nước mắt ! Cuộc sống đầy biến động xung quanh người đàn bà ngồi khóc mỗi chiều suốt bốn lăm năm trong cuốn sách này, nhắc chúng ta như vậy. Lịch sử một dân tộc, lịch sử một dòng họ và lịch sử một số phận đều có những khúc quanh trớ trêu và nhục nhằn. Xã hội nông nghiệp hình thành ý thức sở hữu đất đai. Chính thói tham lam và ích kỷ đã làm sụp đổ nhiều mối quan hệ tình cảm và tạo ra nhiều mảnh đời mang vết thương ân nghĩa.

Nước mắt không không có sức mạnh đấu tranh cho lẽ phải nhưng nước mắt có khả năng che chở cho lẽ phải. Nhất niệm thiên đường, nhất niệm địa ngục ! Kiến giải được lỗi lầm sẽ tha thứ được lỗi lầm. “Hoàng hôn lạnh” chứng minh rằng, tranh đoạt và thù hận không phải phương pháp trưởng thành của những con người trót gánh vác nỗi bất hạnh. Nhà văn Nguyễn Khoa Đăng đánh thức hồi ức đầy bóng tối để khẳng định sự thật đơn giản: Sốt ruột về công lý cũng là một cách nâng niu giá trị nhân phẩm”. Nổi bật nhất trong 5 cuốn tiểu thuyết cuối đời của nhà văn Nguyễn Khoa Đăng là “Nước mắt một thời”. Hồi ấy tôi đã đọc nó còn ở dạng bản thảo. Truyện dựng lại thời cải cách ruộng đất sôi động ở miền Bắc. Tôi đặc biệt thích thú về những chi tiết trong tác phẩm, nó cực kỳ ấn tượng, rõ là người trong cuộc mới có được những chi tiết đắt giá như thế. Nói chung đọc cuốn tiểu thuyết này dễ bị ám ảnh bởi chi tiết được tác giả chắt lọc, làm người đọc nhớ, vừa đau đớn vừa thương cảm cho các nhân vật bị sự ấu trĩ một thời gây ra. Cuốn tiểu thuyết không nhằm tố cáo ai mà chỉ muốn chúng ta nhìn vào đó để rút kinh nghiệm, đừng để lặp lại một lần nào nữa, đó cũng là mong mỏi rất nhân văn của tác giả. Cuốn tiểu thuyết được độc giả đón nhận, truyền tay nhau đọc, nhất là ở quê hương Thái Bình của ông. Đã có Vũ Thị Thu Trang, học viên cao học Văn học Việt Nam k11 lấy tiểu thuyết “Nước mắt một thời” của nhà văn làm đề tài luận văn tốt nghiệp. Trong luận văn của mình Vũ Thị Thu Trang viết: “Người ta gọi Nguyễn Khoa Đăng “Xứng đáng là một nhà văn anh hùng, khi cầm bút ghi lại những năm tháng đau thương mà sôi động của đất nước”. Với bản lĩnh và phí phách của những nhà văn xác định vai trò thư ký thời đại, nhà văn Nguyễn Khoa Đăng đã dũng cảm ghi lại cái thời đầy bùn, máu, nước mắt của dân tộc. Vượt khỏi giá trị văn chương, “Nước mắt một thời” còn góp phần minh họa cho lý luận về giai cấp và đấu tranh giai cấp qua những bài học xương máu của dân tộc. Bao nhiêu đăng cay, bao nhiêu uất nghẹn, bao nhiêu sợ hãi, bao nhiêu căm thù đều được thể hiện trên trang giấy. Nhưng “Nước mắt một thời không rơi vào khuynh hướng bôi đen, phủ nhận lịch sử. Tình yêu, sự thủy chung, sự bao dung và lòng nhân ái đã làm cho độc giả nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm để mà đi theo, để mà hy vọng. Độc giả khóc khi nước mắt một thời. Nhưng khóc bằng tinh thần lạc quan và tư duy cách mạng. Đó là tính nhân văn sâu sắc của tác phẩm”. Còn trong bài “Công án thiền với “Nước mắt một thời”, Tiến sỹ Lê Thanh Hải (Khoa Triết và Xã hội học - Viện Hàn lâm khoa học Ba Lan) nhận định: “Nước mắt một thời”… xứng đáng được đưa vào danh sách các tác phẩm cần đọc thêm trong chương trình bình giảng văn học để học sinh tiếp nhận kỹ năng sáng tác. Với tôi cuốn truyện… chắc chắn sẽ là bài tập đọc bắt buộc cho sinh viên ngành Việt Nam học, đặc biệt là sinh viên người nước ngoài hay gốc Việt tìm hiểu về Việt Nam. Có rất nhiều điểm tương đồng giữa tác phẩm văn học của Nguyễn Khoa Đăng và những công trình khoa học nghiên cứu chính trị xã hội của triết gia Hannah Arendt, người nổi tiếng với các phân tích về hành vi tội phạm khi người ta lên đồng tập thể …Đó cũng chính là điều mà Nguyễn Khoa Đăng đã lột tả khi dẫn dắt người đọc bước vào cõi tư duy của nhân vật mà ông đã xây dựng cho không gian văn học của một thời cải cách ruộng đất, nơi mà sự sống hay cái chết sẽ được quyết định sau một cuộc cách mạng chóng vánh mà đỉnh điểm là phiên đấu tố và kết thúc bằng tòa án nhân dân”. Nổi tiếng như thế nên tiểu thuyết “Nước mắt một thời” đã hai lần dịch sang tiếng Pháp, được hai nhà xuất bản ở Paris ấn hành. Kỷ lục của nhà văn là cuốn “Cài hoa vào quá khứ” (Nhà xuất bản Thanh Niên) tái bản đến 13 lần, có lần in đến 5000 cuốn. Có truyện đã được đưa vào sách giáo khoa lớp 9. Đến nay ông đã xuất bản 22 tác phẩm gồm tập truyện ngắn, tiểu thuyết, kịch bản phim như tập truyện ngắn: “Khói đốt đồng”, “Nước xanh biêng biếc”, “Tình yêu một thuở” ; tiểu thuyết: “Cuộc tình nghiệt ngã”, “Ngõ tre rì rào”, “Hoàng hôn lạnh”, “Chim mặt người” v.v…

Mới đây, nhân kỷ niệm ngày sinh lần thứ 80 của nhà văn Nguyễn Khoa Đăng, các em thiếu nhi thuộc câu lạc bộ Mực Tím ở địa phương đã mang theo nhạc cụ đến nhà, hát chúc mừng nhà văn, tất nhiên có cả bài hát “Em đi giữa biển vàng”. Nhà văn râu tóc bạc phơ cười thật tươi, chưa bao giờ hạnh phúc đến thế, được bạn đọc, nhất là các em thiếu nhi yêu mến, phải chăng đó là giải thưởng lớn nhất của một đời văn nghiệp.

N.T. (Nguồn: Báo Văn Nghệ).

BCH Hội Nhà văn TP. HCM đến thăm nhà văn Nguyễn Khoa Đăng, 2/2021.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Trong màu xanh Vàm Cỏ
Nhà văn Hào Vũ, sinh năm 1950. Quê quán: An Hải, Hải Phòng. Dân tộc: Kinh. Hiện thường trú tại 6/3 Cư xá phường 3, thành phố Tân An, tỉnh Long An. Vào Hội Nhà văn Việt Nam năm 1984.
Xem thêm
Đỗ Thành Đồng và chuyển động đường thơ
Sau gần 15 năm đắm say đến điên cuồng với thi ca, nhà thơ Đỗ Thành Đồng, hội viên Hội Văn học Nghệ thuật Quảng Bình, hội viên Hội Nhà văn Việt Nam đã xuất bản 7 tập thơ.
Xem thêm
Chuyện tình khó quên của Trịnh Công Sơn
Bài viết của nhà thơ Lê Thiếu Nhơn
Xem thêm
Nhà văn Di Li: Tôi bị hấp dẫn bởi người đàn ông nhân văn, tử tế
Tôi nghĩ rằng, là người văn minh thì phải chấp nhận sống chung với sự khác biệt, tuy nhiên, sự khác biệt đó nếu không tốt, muốn người ta thay đổi thì mình sẽ góp ý. Và cách góp ý của mình cũng khá hài hước nên người nghe không mấy khi khó chịu.
Xem thêm
Người tốt trại Vân Hồ
Nhà văn Trung Trung Đỉnh, Giải A cuộc thi tiểu thuyết Hội Nhà văn, 1998 – 2000) với tiểu thuyết Lạc rừng. Giải thưởng Nhà nước về Văn học nghệ thuật năm 2007.
Xem thêm
Nhớ nhà báo Phú Bằng
Đọc bác Phú Bằng từ lâu, khi tôi còn trực tiếp cầm súng ở Trung đoàn 174 Sư đoàn 5 thời chống Mỹ. Lúc ấy bác Phạm Phú Bằng là phóng viên báo QĐND được tăng cường cho báo Quân Giải phóng Miền Nam.
Xem thêm
Nhà văn - dịch giả Trần Như Luận với tác phẩm “Tuyển tập 12 truyện ngắn Anh - Mỹ kinh điển, lừng danh”
Tháng Sáu 2022, trên Báo Thanh Niên rồi Tạp chí Văn nghệ Hội Nhà văn Việt Nam, nhà báo Hà Tùng Sơn và nhà phê bình văn học Vân Phi giới thiệu tác phẩm thứ 7 của nhà văn Trần Như Luận (TNL): tiểu thuyết Gương Mặt Loài Homo Sapiens. Trước đó, anh từng gây tiếng vang nhờ giá trị đáng kể của bộ tiểu thuyết Thầy Gotama và 8000 Đệ Tử dày tới 1.200 trang, trình làng năm 2014. Chúng tôi cũng biết tới cả trăm tác phẩm dịch của anh, cả thơ và truyện, xuất hiện trên các tạp chí Văn nghệ Hội Nhà văn TP Hồ Chí Minh, Văn nghệ Quân đội, Non Nước, Sông Hương, v.v… Xuân Giáp Thìn 2024, nhà văn ra mắt một “dịch phẩm” hoàn toàn mới: Tuyển tập 12 truyện ngắn Anh – Mỹ kinh điển, lừng danh. Sách dày 320 trang, bìa bắt mắt. Sách được Liên hiệp các Hội Văn học-nghệ thuật Việt Nam thẩm định chất lượng và hỗ trợ kinh phí; NXB Hội Nhà văn cấp phép. Nhân một cuộc hẹn thú vị tại Quận 7, TP Hồ Chí Minh, trong một quán cà phê tao nhã, không bỏ lỡ cơ hội, tôi đã thực hiện cuộc phỏng vấn này.
Xem thêm
Nhớ anh Mai Quốc Liên
Bài viết của nhà thơ Trần Đăng Khoa, Phó Chủ tịch Hội Nhà văn Việt Nam
Xem thêm
Nhà văn Trầm Hương: Sứ mạng nhà văn là đi tìm những ẩn số
Hàng chục năm nay, nhà văn Trầm Hương (Phó Chủ tịch Hội Nhà văn TP.HCM) vẫn âm thầm theo dấu chân những anh hùng, người lính, mẹ liệt sĩ… để tìm nhân vật cho những trang sách của mình. Chị ghi dấu ấn đậm nét trong dòng văn học cách mạng hiện nay.
Xem thêm
Thương nhớ anh Duy
Tôi viết ra đây mấy lời tâm sự như thắp một nén nhang kính nhớ thương tiễn anh Duy về trời cùng đàn anh Lê Văn Thảo...
Xem thêm
Nhà văn Ann Patchett: Thời gian tuyệt vời nhất là ở trên máy chạy bộ và viết sách
Ann Patchett là nhà văn Mĩ, tác giả của 9 cuốn tiểu thuyết, 4 cuốn sách phi hư cấu và 2 cuốn sách dành cho trẻ em. Trong văn nghiệp, bà từng giành giải Orange cho Bel Canto, cũng như lọt vào danh sách chung khảo giải Pulitzer 2020 với cuốn Ngôi nhà của người Hà Lan. Gần đây bà đã cho ra mắt cuốn tiểu thuyết mới mang tên Tom Lake, và điều đặc biệt là nó được viết trên bàn đặt trên máy chạy bộ và lời khuyên về năng suất từ ​​Elizabeth Gilbert.
Xem thêm
Lê Minh Quốc và cuộc hành trình chữ nghĩa
Bài của nhà thơ Ngô Xuân Hội trên báo Văn nghệ.
Xem thêm
Nhà thơ Nguyễn Thành Phong: Với chữ nghĩa, tôi như người đang yêu
Gọi Nguyễn Thành Phong là nhà thơ, nhà văn, biên kịch hay cái danh mà mang nhiều nghiệp nợ nhất là nhà báo, thì viết gì, dù là kiếm sống, anh cũng phải cố ở mức tốt nhất theo ý mình thì mới cho là được. Với chữ nghĩa, Nguyễn Thành Phong ví anh như người đang yêu, càng bị “ruồng rẫy”, càng thấy không thể bỏ cuộc.
Xem thêm
Vũ Cao - “Núi Đôi mãi mãi vẫn là Núi Đôi”
Nói đến nhà thơ Vũ Cao không thể không nói tới bài thơ Núi Đôi.
Xem thêm