TIN TỨC

Picasso - Cánh đại bàng nghệ thuật

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng:
mail facebook google pos stwis
1332 lượt xem

(Vanchuongthanhphohochiminh) - Picasso (1881-1973) là họa sĩ, thợ chạm, điêu khắc gia người Tây Ban Nha. Đến hoạt động nghệ thuật tại Paris vào năm 1904, họa sĩ đã làm đảo lộn nền nghệ thuật hiện đại và gây ấn tượng về sự phong phú tác phẩm qua nhiều giai đoạn: Thời kỳ lam – thời kỳ hồng, (1901-1905), lập thể (Quí bà ở Avignon, 1906-1907); tân ấn tượng, 1920, và họa sĩ cũng đã thử nghiệm khuynh hướng siêu thực (surrealisme, 1925-1936), biểu hiện (expressionnisme). Tác phẩm của Picasso còn lưu tại Paris (Hotel Sale) và Barcelone.

Họa sĩ Picasso 

Tuổi xuân mảnh liệt: Thời kỳ lam - Thời kỳ hồng

Vào một chiều tiết trời se lạnh của tháng 10 năm 1900, một chàng trai với khuôn mặt trễ dài khắt khổ, nước da ngâm ngâm, thân hình khá vạm vỡ và hơi thấp nhưng sắc bén ở đôi mắt, lần đầu tiên đến Paris với chiếc áo khoác dày che gần hết cổ và chiếc áo mưa vắt trên khuỷu tay. Chàng thanh niên ấy tên là Pablo Ruiz -Picasso, họa sĩ người Tây Ban Nha.

Picasso (1881-1973) sinh tại Málaga quê hương của chàng. Ngay từ lúc còn thơ ấu, cậu bé Picasso đã sớm được coi là thần đồng mỹ thuật, nổi tiếng ngay từ lúc tuổi mới lên tám qua các bài tập về hội họa tại trường mỹ thuật Málaga. Lần đầu tiên từ Barcelone đến thủ đô nước Pháp và lưu lại nơi đó hai tháng, khi đó Picasso mới 19 tuổi. Sau bốn lần đi lại, chẳng mấy chốc, Picasso ngộ ra được nhiều về con người và nhiều điều nữa từ đất Pháp. Từ đó, Picasso bắt đầu hòa nhập vào không khí hội họa mang tính cách khai phá ở Paris.

Tại xưởng vẽ của một bạn nghệ sĩ đồng hương nơi phố Montmartre, Picasso cũng vẽ nhiều trên bố, đáng chú ý là họa phẩm L’Arlequin et sa compagne (Anh hề và người bạn gái) tự trong đó đã thể hiện được chủ đề và cách thực hiện sê-ri tác phẩm mà về sau người ta xác định được tính cách của hai từ ngữ Thời kỳ lam (Époque bleue: 1901-1904). Họa phẩm Picasso sáng tác trong giai đoạn này xoay quanh lớp người cùng khổ trong xã hội như kẻ hành khất, những em bé lang thang ngoài đường phố và những người đàn bà bất hạnh trong đáy tận cùng xã hội.

Mới qua một kỳ nghỉ đầu tiên tại Paris từ tháng 5/1901 đến tháng 1/1902, Picasso cũng đã gây bao sững sờ bạn đồng nghiệp và các nhà phê bình Pháp qua sự phong phú tác phẩm và sớm thể hiện là một bậc kỳ tài cùng với “cường độ” lao động nghệ thuật hiếm thấy ở bất cứ một nghệ sĩ nào khác. Ta hãy tưởng tượng ra một họa sĩ chưa đầy hai mươi tuổi, theo như một nhà báo viết thời luận thời ấy, chàng đã hoàn tất mỗi ngày ba tấm tranh vẽ trên bố. Chính Ambroise Vollard vừa trưng bày 75 bức tranh của nhà họa sĩ tài danh trẻ tuổi này (24/06/1901). Cùng trong năm, Picasso thực hiện tiếp các họa phẩm chân dung theo phong cách lam. Rồi đến vài tác phẩm khác như Maternités (Tình mẹ con – 1905), L’Enfant au pigeon (Em bé với chú bồ câu – 1901), Toilette (Tắm rửa cho em bé – 1905) từ đó người ta nhận ra được nét vẻ mỏng manh mô tả người đàn bà trong bồn tắm nơi phòng vẽ nghèo nàn lúc bấy giờ của nghệ sĩ nơi đại lộ Clichy. Một Arlequin (Chú hề) với nhân vật trong tranh đói khát, chống khuỷu tay trên bàn cà phê và trong một tư thế gần như đồng nhất, những Buveuses (Những người đàn bà nghiện rượu) ù lỳ rời rã bởi rượu ap-xanh và cảnh túng cùng bế tắt.

Vào năm 1902, Picasso sáng tác hai tác phẩm: Femmes au bar (Những người đàn bà nơi quán rượu) với hình ảnh những người phụ nữ nghiện ngập, chán đời, chếnh choáng với ly rượu giúp họ quên đi khoảnh khắc phù du. Tác phẩm Femme assise (Người phụ nữ ngồi) với hình ảnh người đàn bà xếp đôi cánh tay gầy guộc lên chiếc bụng trống không. Hay tác phẩm Repasseuse (Chị ủi đồ), Nu vu de dos (Khỏa thân lưng) và rất nhiều hình ảnh khác trong tranh của họa sĩ thể hiện những cảnh đói nghèo, đau khổ đa phần được thực hiện tại Barcelone, nơi mà họa sĩ đã trụ lại 10 tháng. Tháng 10/1902, người ta lại thấy Picasso xuất hiện tại Paris, với dáng vẻ tiều tụy khổ ải với cái lạnh cắt da và nỗi cô đơn cùng cực. Trốn chạy cái giá rét của mùa đông khắc nghiệt ở Paris, Picasso quày quã đáo về Barcelone. Nơi đây, chàng lại miệt mài lao động để mong lãng quên nỗi buồn tê tái. Chính giai đoạn này đã khắc đậm dấu ấn nghệ thuật của chàng với những tác phẩm: Célestine, Vieux Juif (Lão già Do Thái), Pauvres au bord de la mer (Những người cùng khổ nơi bờ biển), Étreinte (Siết chặt) và bức họa phúng dụ về cuộc đời: Vie (Cuộc đời).

Tháng 4/1904, Picasso quay lại Paris và lần này chàng cương quyết định vị luôn cuộc sống mình tại đất Pháp. Chàng sống tại Ravignan, trong căn nhà tồi tàn mà nhà thơ Max Jacob từng đến đây rửa tội. Tại nơi đây, Picasso vẽ tác phẩm Femme à la corneille (Người đàn bà với con quạ), Deux soeurs (Hai chị em), những tác phẩm nổi tiếng hôm nay. Bởi đó là những tác phẩm kinh điển sau cùng theo phong cách lam. Thế thì tại sao gọi là lam? Vì lẽ hiển nhiên là màu nầy chiếm ưu thế trong tất cả bức tranh nói trên. Trong vài tác phẩm như: Deux soeurs, không tìm thấy trong đó những gì khác màu lam. Chỉ thuần một màu lam. Nhưng bởi lý do nào Picasso đã sử dụng nó một cách hệ thống như vậy. Không có một câu trả lời thỏa đáng nào được đưa ra từ đó. Tuy nhiên chúng ta hãy quan sát rằng, trong suốt một đời theo nghiệp vẽ của nghệ sĩ, khi chàng đi kiếm tìm cho được cường độ biểu hiện, khi chàng nâng lên cao điểm cái sắc màu thảm thiết, Picasso chỉ còn trông nhờ vào một gam màu thật cô đặc: (L’Atelier de la modiste: Xưởng làm của người bán mũ phụ nữ - 1926, Guernica: Nội chiến – 1937). Rồi thì cũng rất cần phải chấp nhận là không có màu nào hơn màu xanh, và cũng cần nói thêm, cái màu lam tái như ánh trăng này rất thân thiện với Picasso.

Tuy nhiên, màu lam không phải là đặc tính chung duy nhất cho các họa sĩ thời đại này. Một đường vạch cứng cáp, góc cạnh, co dản, những hình dạng bị kéo dài thái quá và bị làm mỏng đi (Những bàn tay với ngón dài trong tác phẩm: Portrait de Jaime Sabartes, Chân dung của Sabartes, và trong Femme à la Corneille, chân tay quá mỏng manh trong Deux soeurs và những khuôn mặt hốc hác, những thân hình mãnh dẽ và nhợt nhạt, tứ chi vặn vẹo, còm cỏi, những tư thế ảo não gầy ốm phô ra giữa ánh sáng nhợt nhạt, là cũng chừng ấy hình ảnh sầu muôn của cuộc đời. Đó là một thế giới của người khuyết tật, của kẻ hành khất, của những người mất thừa kế đáng thương hại vì phải cam chịu, của những con người phải hứng lấy muôn vàn nỗi khắt khe, bởi sự trung gian từ đó nghệ sĩ nói lên kinh hoàng, nỗi chán chường cảnh khoái lạc cùng với tấm lòng đau đáu lo lắng cho con người, ưu tư về điều mà nghệ sĩ đã từ bỏ sáng tác theo đối tượng ngoài con người như phong cảnh, hoa trái… Chủ đề ưa thích của Picasso vốn là những con người bị hất hủi, ruồng bỏ, phản ánh của sự khô cạn, nơi mà chàng đã múc hết nếu không ở trong truyền thống của quê hương chàng, trong căn phòng đợi cái chết nơi đó bao nhiêu họa sĩ Tây Ban Nha đã mang đến cho họ những món quà tang tóc trước chàng.

Nếu cảm hứng của Picasso dễ dàng phân biệt được, thì khó mà nhận rõ ảnh hưởng nghệ thuật mà chàng đã chịu. Và nó đã hình thành phong cách của chàng: gần gũi với Greco, trào phúng kiểu Montmartre, Lautrec, Steilen, Bottini; từ tính cách tượng trưng theo Gauguin và Sérusier, và bao nhiêu nữa… Nhưng nếu những ảnh hưởng ấy có tính quyết định thì khó mà bóp chết cá tính  của chàng, nó chỉ kích thích mạnh mẽ ý chí thống trị ngay từ tuổi hai mươi cho đến hôm nay vốn được coi là đam mê bất biến của chàng: tính không kiên nhẫn, hay thay đổi, phức tạp và dễ mâu thuẩn.

Sau muôn vàn cay đắng, oán hận, căng thẳng ở nghệ sĩ, ta hiểu được rằng Picasso đã thử thách qua nhu cầu xã hội, làm dịu đi tính quá nhạy cảm của chàng.

Với sự thỏa mãn bi thảm cho nỗi buồn, cảnh đói nghèo, sự bất công về số phận con người, từ đó Picasso quay sang, vào cuối năm 1904, đường lối nghệ thuật kiểu cách rất ê-lê-găng: đó là thời kỳ hồng (Époque rose) không phải vì nhà họa sĩ của bức tranh Vieux guitariste (Lão già đánh đàn gui-ta) được báo trước ngay khi vừa được nhìn đến, như người ta từng nói, cuộc sống đầy hoa hồng, mặc dù Picasso bắt đầu phát hiện ở nó có cái gì quyến rũ, dịu dàng nhưng tất cả đều đơn giản. Bởi vì đó là màu hồng, chủng loại sắc màu ngự trị trong tranh của chàng bây giờ. Nếu mắt chỉ thoáng nhìn sắc hồng trong vài tác phẩm, sẽ thấy màu đó phối ngẫu với màu lam để làm giảm nhẹ bớt tính cách nghiêm khắc khô khan trong các tác phẩm: Garcon à la collerette (Cậu trai mang áo cổ xếp) hay trong Chevaux au bain (Ngựa tắm)…

Những cảnh cùng khốn bi thương, người ăn xin mù lòa, những đứa trẻ ốm tong teo, kẻ lang bạt đói khát trong tác phẩm của Thời kỳ lam được xóa sạch trước những chú hề, những diễn viên xiếc, các nghệ sĩ biểu diễn ngoài đường phố… trong đó thể hiện ít đi nỗi đau và thảm kịch hơn… Sự chọn lựa chủ đề làm nổi bật đôi khi sự phát triển tính cách đạo đức và điều quan tâm, lo lắng cụ thể của nghệ sĩ. Sắc hồng mà thi sĩ Goethe đã thêm vào trong bảy màu căn bản của quang phổ, người ngộ đạo coi như tượng trưng cho sự hồi sinh, đã cho vào nghệ thuật phối hợp màu sắc của Picasso một sự hài hòa có hương vị bất ngờ. Bức tranh, có nét mềm mại, ít vẻ biếm họa mà mang nhiều nét cổ điển.

Một đề tài vừa nẩy mầm ra trong óc, một bố cục chặc chẽ và đầy đủ, một cách nhìn khách quan, lạc quan hơn. Ta hãy xem lại các tác phẩm: Mère et son enfant (Mẹ và con), biết bao là dịu dàng thể hiện trong cử chỉ âu yếm của người mẹ khi nghiêng nhìn xuống đứa con mới sinh đang nằm trong lòng mình! Và biết bao nét duyên dáng của tuổi thanh xuân thể hiện trong Jeune fille à la corneille (Em gái với con quạ) và Garcon à la collerette (Cậu bé mang cổ áo xếp) được sáng tác cách quãng trong nhiều tuần mà vẫn tập trung hòa hợp, không phân hóa về giới tính cùng vẻ thanh lịch hào hoa của phong cách nghệ thuật, với cùng một thứ ánh sáng nhẹ nhàng, mượt như nhung.

Mùa hè 1906 đánh dấu giai đoạn chuyển tiếp không còn nghi ngờ gì nữa, có thể giải thích bằng tính bồn chồn, bấp bênh của tuổi thơ (lúc này Picasso vẫn chưa được 25 tuổi), cái tuổi chưa xác định được gì về một sự dừng bước. Đây là nỗi lo sợ canh cánh cùng sự tuyệt vọng của con người cô đơn. Đó là khát vọng yêu thương từ một cử chỉ dịu dàng cần thiết hay tính thanh liêm để thành niềm vui thế kỷ. Nhưng ngay khi mà những đam mê được giải thích cho một đối tượng nào hay trong tâm thức sâu kín đầy tham vọng được xuất phát từ thoáng nhìn qua bài học Cézanne con đường mà chàng thầm lặng kiếm tìm và sẽ đưa chàng đến khuynh hướng Lập thể  (Cubisme), Picasso sẽ từ bỏ hình thức xưa cũ với những hư cấu tự nhiên giả tạo trong nghề nghiệp.

 

Thời kỳ lam-thời kỳ hồng, tất cả nhược điểm rõ ràng về một xã hội bất ngờ mà nghệ sĩ là một kẻ xa lạ trước nó. Tác phẩm của hai thời kỳ ấy đã cho thấy sự sốt ruột sắp sửa nhân lên để thỏa mãn thời đại chúng ta, làm chưng hửng và mê hồn nó. Năm năm trong sự nghiệp nghệ thuật lâu dài và phì nhiêu sẽ không phải là những gì gặt hái được nhiều trong vinh quang của Picasso mà chúng ta nhìn được hôm nay bằng một sự ngưỡng mộ kín đáo thân tình. Bởi vì đó lá uy tín của những anh hùng trẻ tuổi trong nghệ thuật và tư tưởng. Còn thanh xuân và cũng chưa có gì nhiều ở họ, trừ phi là sức mạnh làm nẩy mầm lên từ hạt giống tốt và lời hứa hẹn sắt son đảm bảo tương lai.

                                                                                     Xuân Nhâm Dần (2022)

                                                                                                 Đ. T

* Người viết sử dụng tiếng Pháp, vì họa sĩ Picasso hoạt động mỹ thuật trên đất Pháp.

- Bài viết được tổng hợp từ các tài liệu mỹ thuật:

  • Tự điển mỹ thuật-Hà Nội.
  • Tìm hiểu hội họa-Đoàn Thêm (NXB Nam Chi tùng thư – Sài Gòn 1962).
  • Tạp chí mỹ thuật – Hà Nội (từ 1975).
  • Tạp chí mỹ thuật – Thành phố Hồ Chí Minh (từ 1975).
  • Tạp chí Phổ Thông (trước 1975, Nguyễn Vỹ chủ biên).
  • Những khuynh hướng chủ yếu của hội họa tư sản hiện đại – NXB Văn hóa Hà Nội, 1978.
  • Các tài kiệu tiếng Anh, Pháp, Đức, Việt… viết về Van Gogh, Picasso, Cézanne, Kandinsky, Modigliani… của NXB Fernand Hazan-Paris VI, 1963.
  • L’art moderne (Nghệ thuật hiện đại) – Joseph Émile Muller, 1963.
  • Nghệ thuật Mô-đec và Hậu Mo-đec – Lê Thanh Đức – NXB Mỹ thuật, 2003.

  …………

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ Valentina Novkovich (Cộng hòa Serbia)
Nhà thơ Valentina Novkovich, đồng thời là nhà văn, dịch giả văn học, nhà báo của Cộng hòa Serbia. Chị tốt nghiệp Khoa Ngôn ngữ và Văn học Nga (ngôn ngữ thứ hai là tiếng Anh). Đã công bố thơ và văn xuôi trên nhiều tạp chí ở Serbia, như Književne novine, Trag, Književni pregled, Brankovina, Buktinja, Stremljenja, Savremenik, Istok, Balkanske vertikale; và trên các tạp chí điện tử Ekerman, Hyperboreja, Zvezdani kolod ở Nga, Uzbekistan, Kyrgyzstan, Ba Lan, Romania, Macedonia, Kazakhstan.
Xem thêm
Giới thiệu thơ Maria Teresa Liuzzo (Italia)
Khâu những vạt áoMột dòng nước phun tràoRằng gió thắt nútBước đi của một đứa trẻ
Xem thêm
Quá trình trưởng thành đầy sóng gió của nhà thơ đoạt giải TS Eliot
Lớn lên ở Jamaica, từng nghĩ bà ngoại là mẹ mình, khi bà đã dạy anh học chữ viết trên hiên nhà với bảng đen. Bây giờ Jason Allen-Paisant dự định bay tới Ethiopia để gặp cha lần đầu tiên.
Xem thêm
Chùm thơ Oleg Ananyev (Cộng hòa Belarus)
Nhà thơ Ananyev Oleg Valentinovich, sinh ngày 12/9/1955, tại thị trấn Mordovo, vùng Tambov (Nga). Sống tại thành phố Gomel (thành phố lớn thứ hai của Belarus) từ năm 1957. Ông tốt nghiệp khoa Ngữ văn, trường đại học tổng hợp Francysk Skaryna, Gomel. Oleg Ananyev từng là nhà thiết kế đồ họa, người đề xướng trong Hội Tri thức Belarus, giáo viên văn hóa nghệ thuật, mỹ thuật thế giới, giám đốc phòng trưng bày nghệ thuật của BSH, phó giám đốc Thư viện khu vực Gomel. Ông là hội viên Hội Nhà văn Belarus, Hội Nghệ sĩ Belarus, Liên đoàn Nhà văn và Nghệ sĩ quốc tế; đồng thời là nhà phê bình nghệ thuật, nhà văn, nhà báo, nhà viết kịch, nhà sử học địa phương. Oleg Ananyev là tác giả của một số tập thơ, người khởi xướng và tuyển chọn cuốn sách Исповедь в красках (tạm dịch: “Lời thú nhận trong màu sắc”, gồm 86 chương viết về các nghệ sĩ ở thành phố Gomel), Золотые купола (tạm dịch: Những mái vòm vàng. Viết về các nhà thờ ở Gomel); người khởi xướng và đồng tác giả dự án văn học nghệ thuật của Thư viện khu vực Gomel nhân kỷ niệm 70 năm Chiến thắng vĩ đại Живая память моей семьи (tạm dịch: “Ký ức sống động của gia đình tôi”), đồng tác giả của tuyển tập vở kịch Последователи Макаёнка (tạm dịch: “Những người theo dõi Makayonka”). Đạt giải trong hơn 10 cuộc thi văn học ở các hạng mục “thơ” và “văn xuôi” (trong đó có hai lần mang tên Kirill Turovsky – “báo chí”). Ông đã được Bộ Văn hóa Cộng hòa Belarus trao tặng Huy hiệu Danh dự “Vì những đóng góp cho sự phát triển văn hóa Belarus”.
Xem thêm
Giới thiệu thơ Tetyana Hrytsan-Chonka (Ucraina)
Tetyana Vasylivna Hrytsan-Chonka - là nhà văn, nhà giáo dục người Ukraina. Bà sinh ngày 29 tháng 4 năm 1964 tại làng Vilkhivtsi, hiện đang cư trú tại Zakarpattia, phía tây nam của Ukraina. Bà là hội viên của Liên minh Nhà văn quốc gia Ukraina, thành viên Học viện Văn học, Nghệ thuật và Truyền thông quốc tế Gloria (Đức) và Tổ chức Công cộng Ukraina Kobzar. Tác giả của 12 tập thơ, tiểu thuyết và tiểu luận Những cánh cửa sống, hay tôi là quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là đàn bà.... Là đồng tác giả của 77 tuyển tập và niên giám, cả ấn phẩm của Ukraina và quốc tế, bao gồm Article - Tel Aviv, Soul (tuyển thơ Nhật Bản), Brzegi ognia I Wody (niên lịch Ba Lan), tạp chí văn học nghệ thuật TextOver; tuyển tập thơ quốc tế Lili Marleen (tiếng Hy Lạp); tuyển tập thơ Trung Quốc Thơ thế giới; có mặt trong tuyển tập thơ chống chiến tranh bằng tiếng Anh Những bài thơ cho nhân dân Ukraina; đồng tác giả cuốn sách giáo khoa dành cho học sinh Ukraina lớp 5 & 7 “Văn học hiện đại quê hương”. Là tác giả của tập thơ Azerbaijan-Ukraina Quả táo vàng, cùng những tập thơ khác. Các tác phẩm của bà đã được dịch sang tiếng Ba Lan, tiếng Nhật, tiếng Trung, tiếng Ý, Thổ Nhĩ Kỳ, Hy Lạp, tiếng Anh, tiếng Azerbaijan và các ngôn ngữ khác. Bà là người Ukraina duy nhất tham gia tuyển tập Anatolian Wind IV - International Anthology (xuất bản ở Thổ Nhĩ Kỳ). Là người duy nhất tham gia dự án Tạp chí quốc tế “Thần đồng” (Hoa Kỳ) tháng 10 năm 2023 trong chu kỳ “Thức tỉnh. Bà là người giữ kỷ lục, người tham gia tuyển tập quốc tế “HYPERPOEM” với 2000 người tham gia, đã được ghi vào kỷ lục của sách Guinness. Là đồng tác giả văn học thế giới trên báo quốc tế “Quốc gia toàn cầu” (Bangladesh). Các tác phẩm của bà được xuất bản trên các ấn phẩm quốc tế. Bà tham gia vào nhiều diễn đàn quốc tế Các nhà thơ của thế giới vì hòa bình ở Ukraina ở Ý, Đức, Anh, Trung Quốc, Canada, Mỹ, Bangladesh và Đức. Giải thưởng Văn học Hòa bình quốc tế (Đức-Ukraina). Là người đoạt các giải thưởng quốc tế và Ukraina, đồng thời là người chiến thắng trong nhiều cuộc thi, trong đó, đoạt Giải thưởng Văn học và Nghệ thuật quốc tế mang tên Panteleimon Kulish (2020) cho cuốn sách văn xuôi Những cánh cửa sống, hay tôi là một quả táo mù của nhiều thế kỷ. Tôi là phụ nữ, đoạt giải Franz Kafka quốc tế (Frankfurt-Vienna-Prague), đoạt giải Chiếc lông vàng quốc tế tại Azerbaijan, được trao bằng tốt nghiệp của Cộng đồng Nhân vật Văn học và Nghệ thuật Gloria, và được liệt kê trong bảng xếp hạng năm 2022 Người sáng tạo và Người giám hộ. Bà còn đoạt Giải thưởng Văn học Nghệ thuật quốc tế danh dự mang tên Heinrich Böll (2022); đoạt giải Cuộc thi Văn học Nghệ thuật quốc tế Ernest Hemingway tại Đức năm 2022, đoạt giải “Ngoại giao Văn hóa” quốc tế; được trao tặng danh hiệu Trật tự thế giới “Sao vàng ngoại giao văn hóa” (2023); đoạt Giải Văn học quốc tế mang tên Robert Burns (Scotland-Mỹ, Los Angeles) năm 2023; đoạt Giải Văn học Nghệ thuật mang tên Vasyl Yuhymovych (2023); được tờ báo nổi tiếng thế giới The Daily Global Nation Independent, Dhaka, Bangladesh vinh danh “Đại sứ hòa bình quốc tế” (Đức-Mỹ, 2023); giải “Cây cầu vàng” của Quỹ Văn học quốc tế ở Kyrgyzstan, đoạt giải thưởng quốc tế mang tên Dka de Rishelle ở hạng mục “Sách của năm” cho cuốn sách “Thời đại khác nhau” (Đức-Ukraina, 2023); giải thưởng của Quỹ Rahim Karimov (2023) ); Chủ tịch Quỹ Văn học quốc tế; đoạt Giải thưởng Văn học quốc tế mang tên Theodore Dreiser (Art Marathon, Bồ Đào Nha, 2023) và một số giải thưởng khác.
Xem thêm
Cuộc đời vẫn đẹp
Buổi sáng tôi thường dậy sớm để đi làm. Tôi thích nghe tiếng chim hót nên trên đường hay ngước mắt dõi theo những cánh chim dang rộng bay đi bắt côn trùng. Những chú chim sẻ ấy là các bạn đồng hành, giúp tôi thư giãn trước khi đến quảng trường nơi có thư viện mà tôi làm việc.
Xem thêm
Chùm thơ Trương Chí
Nhà thơ Trương Chí (张智, tên tiếng Anh: Zhang Zhi), sinh năm 1965 tại thị trấn Phượng Hoàng, huyện Đan Ba thuộc Châu tự trị dân tộc Tạng Cam Tư, tỉnh Tứ Xuyên, Trung Quốc. Ông là nhà thơ, nhà phê bình văn học, nhà xuất bản, dịch giả uy tín của văn học Trung Quốc đương đại. Trương Chí là tiến sĩ văn học. Hiện là chủ tịch Trung tâm Nghiên cứu và Dịch thuật quốc tế. Tổng biên tập Tạp chí Xuất bản Thơ quốc tế hàng quý (đa ngôn ngữ) và ấn bản tiếng Anh của Niên giám Thơ thế giới, đồng thời là cố vấn cho Trung tâm Toàn cầu hóa Thơ Trung Quốc bằng các ngôn ngữ quốc tế. Từ năm 1986, ông bắt đầu công bố tác phẩm văn học và dịch thuật của mình. Tác phẩm của ông đã được dịch ra hơn 40 thứ tiếng quốc tế. Trương Chí từng đoạt giải thưởng Văn học của Hy Lạp, Brazil, Mỹ, Israel, Pháp, Ấn Độ, Ý, Áo, Lebanon, Macedonia, Nga, Nhật Bản, Ai Cập, Bỉ, Armenia và Kyrgyzstan. Các tác phẩm chính của ông bao gồm các tuyển tập thơ: Receita (tạm dịch: Mùa thu hoạch - Tiếng Bồ Đào Nha-Anh-Trung), Selected Poems of Diablo (tạm dịch: Những bài thơ chọn lọc của Diablo - Tiếng Anh), Poetry by Zhang Zhi (tạm dịch: Thơ Trương Chí - Tiếng Đức-Anh-Bồ Đào Nha), Những bài thơ chọn lọc của Diablo (tiếng Trung-Anh), A Jigsaw Picture of the World (tạm dịch Bức tranh ghép hình thế giới - Tiếng Albania), Feu Follet On Paper (tạm dịch: Làm yêu tinh trên giấy - Tiếng Ả Rập), Poison (tạm dịch: Chất độc - Tiếng Ả Rập) và The Mirror Image of Ghost City (tạm dịch: Hình phản chiếu của thành phố ma - Tiếng Serbia), Tuyển tập phê bình thơ có tựa đề Loạt bài tiểu luận về các nhà thơ Trung Quốc tiên phong, và bản dịch thơ A & 1 is the Founder (tạm dịch: A & 1 người sáng lập - Tiếng Anh-Trung), Tuyển tập các bài thơ của Tareq Samin (tiếng Anh-Trung), My Secret Lover, You (tạm dịch: Em, người tình bí mật của anh - Tiếng Trung), và dịch tiểu thuyết Назови имя бога của Savitskaya Svetlana Vasilievna, LB Nga (tạm dịch: Xưng danh Thiên Chúa - Tiếng Nga-Trung), v.v. Ngoài ra, ông còn biên tập cuốn sách Thơ chọn lọc của các nhà thơ quốc tế đương đại (tiếng Anh-Trung), Thơ Trung Quốc chọn lọc thế kỷ 20 (tiếng Trung-Anh), Từ điển các nhà thơ quốc tế đương đại (đa ngôn ngữ), Sách giáo khoa Trung-Anh: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2012), và Kinh điển thế kỷ: 300 bài thơ Trung Quốc đổi mới (1917 - 2016), v.v.
Xem thêm
Mở vòng tay tình yêu | Chùm thơ Bill Wolak (Mỹ)
Bill Wolak là nhà thơ, nghệ sĩ tranh cắt dán kiêm nhiếp ảnh gia. Ông sinh sống tại New Jersey (Mỹ) và đã xuất bản 18 tập thơ.
Xem thêm
Quyền năng biến đổi của Ruth- truyện ngắn Suchen Christine Lim
Suchen Christine Lim sinh năm 1948 ở Malaysia. Bà lớn lên ở cả hai phía của eo biển ngăn cách Malaysia khỏi Singapore. Bà đến Singapore năm 14 tuổi, học ở Tu viện của trường Holy Infant Jesus, và sau đó là Đại học Quốc gia Singapore. Bà dạy ở một trường cao đẳng và làm chuyên viên thiết kế chương trình giảng dạy ở Bộ Giáo dục. Suchen nghỉ việc vào năm 2003 để dành toàn thời gian cho viết lách.
Xem thêm
Thơ Isaac Cohen (Israel)
Nhà thơ quốc tế, người Israel.
Xem thêm
Luận về thơ của Yi-Soo Byeon (Hàn Quốc)
Thơ là điều gì đó xảy ra ngay khi bạn thức dậy sau giấc ngủ. Giống như việc bạn mở mắt ra, đi trên mặt nước và ném mình vào một thứ gì đó.
Xem thêm
Gió rì rào trò chuyện - chùm thơ Soad Al-Kuwari (Qatar)
Tác giả là Cố vấn Văn hóa tại Bộ Văn hóa Qatar Điều phối viên Phong trào Thơ Quốc tế tại Qatar
Xem thêm
Chùm thơ Khasanboy Kholmirzaevich Gayubov (Cộng hòa Tajikistan)
Gốc cây thuở ấy lắng ngheNơi tôi thường vẫn đi về ngày xưaVà em, chuyện thật như đùaBây giờ chỉ đến trong mơ một lần.
Xem thêm
Du khách kiên định trong vũ trụ thi ca
Đó là cách người ta nói về Rodica Marian – tác giả cuốn thơ “Khoảnh khắc can đảm”.
Xem thêm
Chùm thơ Rida K Liamsi
Nhà thơ Rida K Liamsi sinh ngày 17/7/1943 tại Dabosingkep, thuộc quần đảo Lingga, tỉnh Đảo Riau, Cộng hòa Indonesia. Ông đã xuất bản 6 tập thơ: ODEX (1971), Tempuling (2003), Kelekatu (2007), ROSE (2003), Secangkir Kopi Sekanak (2017) và Sungai Rindu (2020). Thơ của ông được in trong nhiều tuyển tập cùng với các nhà văn, nhà thơ khác. Cuốn sách có tựa ROSE đã nhận được giải thưởng của Viện Ngôn ngữ quốc gia Indonesia năm 2018. Rida cũng là tiểu thuyết gia, đã xuất bản một số cuốn sách: Bulang Cahaya (2007), Megat (2016)...
Xem thêm
Chùm thơ Abdukakhor Kosim (Cộng hòa Tajikistan)
Nhà thơ Abdukakhor Kosim (tên đầy đủ: Abdukakhor Sattorovich Kosimov), sinh ngày 27/1/1965, tại trang trại bang Kuibyshev, thuộc vùng Vakhsh, Cộng hòa Tajikistan, trong một gia đình làm nghề thợ rèn. Ông đồng thời là nhạc sĩ, nhà báo uy tín của Tajikistan.
Xem thêm
Yevgeny Chigrin (LB Nga) - Mai Văn Phấn dịch từ tiếng Nga
Yevgeny Chigrin là một trong những nhà thơ đương đại uy tín của LB Nga
Xem thêm
Chùm thơ của Mahmoud Drwwish, nhà thơ lớn của Palestine
Mahmoud Darwish là một nhà thơ người Palestine và là một trong những nghệ sĩ hàng đầu của thế giới Ả Rậ
Xem thêm