TIN TỨC

Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-12-12 22:15:23
mail facebook google pos stwis
11 lượt xem

Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.

Về thể loại, nó thường được đồng thuận là tiểu thuyết trưởng thành (bildungsroman), nhưng bên cạnh đó nó cũng đồng thời là một khảo sát về văn hóa, văn minh, tôn giáo, đạo đức và chủ nghĩa nhân văn thường được thảo luận trong những năm đầu Thế chiến thứ nhất. Ngoài ra, nó cũng là một câu chuyện châm biếm về những gì xảy ra khi các nhân vật bị giam cầm nhiều tháng liền trong một dưỡng đường trên dãy núi Alps, bị cắt đứt khỏi cuộc sống “đồng bằng” theo cả nghĩa đen (địa lí) lẫn nghĩa bóng (tinh thần/hiện sinh).

 

Tiểu thuyết gia Thomas Mann.

 

Trên thực tế, Thomas Mann bắt đầu viết tiểu thuyết ngay sau khi đến thăm vợ mình, Katia Mann, ở Davos – nơi bà đang hồi phục sau căn bệnh phổi. Ngay lập tức ông bị ấn tượng bởi bối cảnh này, và định mang nó vào một tiểu thuyết ngắn sẽ là “đối trọng” với Chết ở Venice. Nhưng theo thời gian, Mann nhận thấy câu chuyện đang mở rộng vượt xa khuôn khổ bản thân dự tính. Trong khi cuốn này dù ngắn nhưng nặng nề, u ám với những khát khao bi thảm, thì Núi thần lại có dung lượng gần như sử thi, xoay quanh nhân vật Hans Castorp thay vì dành 3 tuần tại dưỡng đường ấy như kế hoạch ban đầu, thì cuối cùng sẽ “kẹt lại” đây lên đến 7 năm.

Cuốn sách có sức hấp dẫn vượt thời gian, rất hài hước và được độc giả ở khắp mọi nơi yêu thích vì chứa đựng những tình tiết bất ngờ, kết hợp với nghiên cứu khoa học, những cuộc tranh luận triết học phức tạp, nỗi ám ảnh lãng mạn và từng trang sách là những mô tả vô cùng công phu về mọi thứ: từ dãy núi Alps đến những trạng thái tâm lí phức tạp. Trong khi đó cốt lõi của nó là một ý tưởng hấp dẫn mà nhân vật chính non nớt và người kể chuyện chán chường đã dành ra hàng trăm trang để theo đuổi mà không có được bất kì câu trả lời chắc chắn nào: ý nghĩa của thời gian. Cuốn sách đã quyến rũ nhiều thế hệ độc giả nói tiếng Anh, một phần nhờ vào bản dịch xuất sắc của Helen Tracy Lowe-Porter (1927) và John E. Woods (1995).

Mặc dù có thể đọc và thưởng thức Núi thần mà không cần hiểu biết sâu sắc về bối cảnh lẫn chuyện “hậu trường”, nhưng những ai có khả năng đào sâu hơn vào kho tàng tư liệu lịch sử và triết học sẽ hiểu được nó thêm phần sâu sắc. Điều này đôi khi có thể gây bối rối cho những độc giả không am hiểu bối cảnh văn hóa và chính trị của nước Đức trong những thập niên đầu thế kỉ 20. Mặc dù có rất nhiều nghiên cứu học thuật xuất sắc về tiểu thuyết này, nhưng vẫn còn thiếu một cuốn cẩm nang hướng dẫn trực tiếp cho tất cả mọi người ngoài giới học thuật.

Trong đó The Master of Contradictions (tạm dịch: Bậc thầy mâu thuẫn) của Morten Høi Jensen chính là tác phẩm mà những người nói tiếng Anh, yêu thích tiểu thuyết của Mann, cần có. Nó không đơn thuần là một cuốn tiểu sử, một tác phẩm lịch sử, hay một bài luận về tiểu thuyết này; nhưng lại cung cấp đủ những yếu tố để độc giả của Núi thần có thể “nhập vai” vào đúng bối cảnh khi nó được viết. Jensen nhìn nhận Mann như một hiện thân của thời đại: vừa là một tài năng văn chương vĩ đại, vừa là một người bình thường (theo mọi nghĩa) đang vật lộn để tìm kiếm định hướng trong một giai đoạn lịch sử đặc biệt biến động của nước Đức. Như ông đã chứng minh, những dấu vết của cuộc đấu tranh đó đã để lại dấu ấn trên các trang sách.

Bắt đầu bằng mạch truyện tiểu sử, đặc biệt nhấn mạnh vào chuyến thăm Davos đầu tiên của Mann, Jensen sau đó khảo sát những khía cạnh nổi bật hơn trong hoạt động của nhà văn người Đức trong những năm trước đó, trùng khớp với quá trình sáng tác cuốn sách. Những khía cạnh này bao gồm sự cạnh tranh liên tục của Mann với anh trai Heinrich – một nhà văn sung mãn hơn nhiều, người có quan điểm mạnh mẽ về trách nhiệm của người nghệ sĩ trong việc lên tiếng chống lại những tệ nạn xã hội và bất ổn chính trị, người trái ngược hoàn toàn với em trai vốn bảo thủ và kín tiếng hơn. Jensen đã vẽ nên những mối liên hệ sâu sắc giữa các nhân vật và cốt truyện của Núi thần với những vấn đề mà Mann đang phải trải qua trong cuộc sống của mình.

Ví dụ, tác giả này đã kết nối “sự đồng cảm với cái chết” được gán cho Castorp với những dòng trong một bức thư Mann viết cho anh trai, trong đó ông nói bản thân ghen tị với Heinrich vì có “quan điểm học thuật và chính trị đúng đắn”, trong khi mình chỉ có “một sự đồng cảm ngày càng gia tăng với cái chết”. Jensen cũng thảo luận về việc Mann sử dụng thuật ngữ “zivilisationsliterat” như một cách khinh miệt để chỉ anh trai, mà nó có nghĩa là “người đàn ông của văn minh”…

 

Bộ sách Núi thần của Thomas Mann.

 

Xuyên suốt tác phẩm, Jensen đã khéo léo lồng ghép những cuộc thảo luận về bản thân cuốn sách với bối cảnh lịch sử, và mặc dù ông đưa ra lời cảnh báo rằng tiểu thuyết của mình “không có ý định cung cấp bất cứ phân tích toàn diện nào về Núi thần” lẫn khẳng định bản thân “không phải học giả”, nhưng ông vẫn đề cập đến những điểm quan trọng nhất của tác phẩm. Trên thực tế, cách tiếp cận tiểu thuyết theo lối “đại chúng” của ông chính là điều mà hầu hết độc giả sẽ thấy dễ hiểu và rất hữu ích: một cánh cửa mở về cuốn sách này mà không hàn lâm như một chuyên khảo học thuật.

Người ta thường kết luận người sáng tác các chương đầu của Núi thần vào năm 1912 không còn là cùng một người đó khi viết những trang cuối vào năm 1924. Đối với những người dịch sách, điều này dẫn đến khá nhiều vấn đề, bởi mặc dù cuốn sách có nghệ thuật viết tuyệt vời, có cấu trúc chặt chẽ khi các mạch truyện gắn bó mật thiết, nhưng nó cũng chứa đựng những giọng điệu, mối bận tâm và thậm chí là lập trường khác nhau. Sự bất hợp lí này chính là kết quả của khoảng cách khá xa trong quá trình sáng tác cuốn sách, khi công việc của ông bị gián đoạn đáng kể trong những năm chiến tranh.

Tuy nhiên, nói như vậy là đánh giá quá thấp tác động của chiến tranh và hậu quả của nó đối với hầu hết mọi mặt của xã hội Đức và từng công dân. Trọng tâm cuốn sách của Jensen là một bản tường thuật chi tiết về giai đoạn đặc biệt phức tạp trong lịch sử quốc gia, từ sự bùng nổ mạnh mẽ của lòng yêu nước (và tinh thần bài châu Âu) trước chiến tranh, đến sự xuất hiện lạnh lẽo của bạo lực chính trị trong giai đoạn hỗn loạn, suy thoái đạo đức sau khi cuộc chiến kết thúc. Là một nhà văn “tư sản” của thời kì này, Mann đã cố gắng tránh xa chính trị, nhưng rồi nhận ra sự rút lui này thực chất là một động thái mang tính chính trị hơn bao giờ hết.

Không thể tập trung vào Núi thần trong những năm tháng hỗn loạn và cũng muốn tham gia tích cực hơn vào các cuộc tranh luận đương đại, Mann đã tạm dừng việc viết lách ở đâu đó khoảng 1/6 cuốn sách, từ đó dành những năm chiến tranh để sáng tác Reflections of a Nonpolitical Man đồ sộ, dài gần 600 trang để nói về những thực tế chính trị diễn ra quanh mình. Lúc sách ra mắt cũng chính là khi nước Đức tuyên bố bại trận vào năm 1918, vì vậy mà nó dường như không còn giá trị. Do đó Mann đã viết thư cho biên tập viên để ngăn việc xuất bản nó.

Trở lại với Núi thần, ông đã ngồi xuống viết 3 chương cuối dài khoảng 800 trang với những quan điểm giờ đã thay đổi, khi niềm tin vào sự ổn định của các giá trị tư sản bị lung lay dữ dội, nhường chỗ cho cái nhìn bi quan hơn. Đối với nhiều cuốn sách, sự thay đổi đáng kể về niềm tin cơ bản của tác giả có thể dẫn đến hậu quả thảm khốc; nhưng ở đây, điều đó chỉ càng làm tác phẩm trở nên thú vị. Nói thế bởi lẽ ở đó người ta có thể liên tục thấy những quan điểm khác nhau bị thử nghiệm và bác bỏ, từ đó bản chất của thời đại hiện lên qua cuộc chất vất của các nhân vật. Do đó không ngoa khi nói Thomas Mann chính là bậc thầy của nghịch lí: của những niềm tin liên tục bị xô đổ, hình thành, thoái trào rồi lại xuất hiện dưới một dạng mới. Và không đâu khác, Núi thần chính là tác phẩm sở hữu trong mình đầy ắp mâu thuẫn ấy.

Ngô Minh/VNQĐ

Bài viết liên quan

Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm
Julio Cortázar và tập truyện ngắn bị “bỏ quên”
Mới đây, A Certain Lucas đã tái xuất sau nhiều thập kỉ, mở ra cánh cửa khám phá nhà văn vĩ đại người Argentina Julio Cortázar cũng như ảnh hưởng vượt khỏi châu Mĩ của cây bút này.
Xem thêm
Đọc tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu dưới góc nhìn từ đời thường
Bài viết của nhà văn Nguyên Bình tác phẩm “Biên bản thặng dư” của Phùng Hiệu
Xem thêm
Nước mắt trong Lục Bát Mẹ
Nhà thơ Đỗ Thành Đồng vừa làm lễ kỉ niệm 5 năm ngày mất của mạ, và dịp này anh ra mắt tập thơ thứ 9 “Lục bát mẹ”. Hơn 100 trang sách với 42 bài thơ lục bát viết về mẹ (mẹ anh sinh năm 1942), mỗi bài thơ là một cung bậc cảm xúc, cũng là những khúc ru của một người con hiếu đạo đối với mẹ ở nơi cõi Phật.
Xem thêm
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Một Nguyễn Mạnh Tuấn vừa lạ vừa quen trong hai tác phẩm mới
Xem thêm
Nhà văn Nguyễn Mạnh Tuấn chua ngọt một đời cầm bút
Văn Chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu bài viết của nhà thơ, nhà lý luận phê bình Lê Thiếu Nhơn như một tiếp nối của cuộc trò chuyện đẹp này.
Xem thêm
Hoàng Đăng Khoa và nỗi buồn đương đại trong tập thơ mới
Có thể nói, buồn là phẩm chất thuộc tính thương hiệu của thi nhân. Tản Đà từ khoảng 1916 đã viết “Đêm thu buồn lắm chị Hằng ơi/ Trần thế em nay chán nửa rồi”, 20 năm sau, khoảng 1936, Xuân Diệu “Hôm nay trời nhẹ lên cao/ Tôi buồn không hiểu vì sao tôi buồn”. Cũng khoảng ấy, nhưng trước một hai năm, Thế Lữ cũng “Tiếng đưa hiu hắt bên lòng/ Buồn ơi! xa vắng mênh mông là buồn”. Ngay cả Tố Hữu, cùng thời gian, viết: “Buồn ta là của buồn đời/ Buồn ta không chảy thành đôi lệ hèn/ Buồn ta, ấy lửa đang nhen/ Buồn ta, ấy rượu lên men say nồng”. Đều buồn cả.
Xem thêm
Quá trình tự vượt lên chính mình
Tôi nhận được thư mời của Ban Tổ chức buổi Giao lưu - Tặng sách vào buổi chiều hôm nay (16/11) tại tư dinh của họa sỹ Nguyễn Đình Ánh ở Việt Trì, Phú Thọ. Ban Tổ chức có nhã ý mời tôi phát biểu ở buổi gặp mặt. Thật vinh dự nhưng quá khó với tôi: Lại phải xây dựng thói quen “Biến không thành có, biến khó thành dễ, biến cái không thể thành cái có thể…” như Thủ tướng Phạm Minh Chính thường nói!
Xem thêm
Nguyễn Thanh Quang - Giọng thơ trầm lắng từ miền sông nước An Giang
Trong bản đồ văn học đương đại Việt Nam, mỗi vùng đất đều mang trong mình một mạch nguồn riêng, âm thầm mà bền bỉ, lặng lẽ mà dai dẳng như chính nhịp sống của con người nơi đó. Và trong không gian thi ca rộng lớn ấy, An Giang như một miền phù sa bồi đắp bởi nhánh sông Hậu, bởi dãy Thất Sơn thâm u, bởi những cánh đồng lúa bát ngát, bởi mênh mang sóng biển và bởi những phận người chất phác, luôn có một sắc thái thi ca rất riêng. Đó là vẻ đẹp của sự hiền hòa xen chút sắc bén, của nỗi lặng thầm pha chút đa đoan, của những suy tư tưởng như bình dị mà lại chứa cả thẳm sâu nhân thế.
Xem thêm
Thơ Thảo Vi và cội nguồn ánh sáng yêu thương
Giọng thơ trầm bổng, khoan nhặt. Thi ảnh chân phương mà thật gợi cảm và tinh tế. Có lúc ta cảm nhận được những man mác ngậm ngùi, nỗi hối tiếc đan xen niềm hoài vọng, mơ tưởng. Thơ Thảo Vi có sự hòa phối các biện pháp nghệ thuật với dụng ý làm nổi bật nội dung, tư tưởng cốt lõi. Đó là tâm thức cội nguồn, chạm đến đỉnh điểm của tình cảm thương yêu, thấu hiểu với cõi lòng của đấng sinh thành. Thơ Thảo Vi là tiếng gọi đầy trìu mến, sâu lắng dư âm từ những thi hứng đậm cảm xúc trữ tình.
Xem thêm