TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Tản mạn về giải thưởng văn chương và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2021

Tản mạn về giải thưởng văn chương và Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2021

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2022-04-23 23:10:33
mail facebook google pos stwis
1727 lượt xem

Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam là điểm cao trào cuối của những công cuộc thầm lặng diễn ra trong suốt một năm. Cái công cuộc ấy không phải chỉ là sáng tác, mà là nhìn nhận. Chừng nào giải thưởng còn mang lại một cảm giác chờ đợi và khai phá, chừng đó người ta còn tin tưởng vào một nền văn học lành mạnh.

Giải thưởng luôn là điều cần thiết cho văn chương, ở những lẽ sau đây. Thứ nhất, nó mang lại cho văn chương những lợi ích hữu hình. Song hành với giải thưởng là tiền bạc và danh vọng: với các nhà văn mới xuất hiện, đó là một sự công nhận và khích lệ; với các nhà văn đã thành danh, đó là sự củng cố và khẳng định. Mà nhiều khi, các nhà văn thành danh cũng cần khích lệ nữa, để tránh khỏi cái nguy cơ chán viết khi sự nghiệp đã đến đỉnh cao. Thứ hai, xét về lợi ích vô hình, giải thưởng là cái cớ để neo lại trong một dòng chảy văn chương, để công chúng và giới phê bình có thời gian nhìn nhận lại một đoạn đường đã qua. Cái dấu chân in lên của đoạn đường trước sẽ tạo nên hõm đất làm điểm bật cho chặng đi tiếp theo. Sức lan tỏa của một giải thưởng khả tín sẽ đầy sức khơi gợi. Người vô danh nhìn thấy một ngọn đuốc nhận đường mờ tỏ, cũng bước ra khỏi bóng tối để thi thố chữ nghĩa.


Chủ tịch nước Nguyễn Xuân Phúc trao Giải thưởng Văn học trẻ cho các tác giả đoạt giải.

Giải thưởng cũng giải quyết cái cô đơn hiển nhiên của một nhà văn: cần được công nhận, và cần được thấy rằng rồi cũng sẽ được công nhận. Đừng ai nói rằng hội hè đình đám trong văn chương là không quan trọng. Ta chỉ tìm thấy đúng bản thân mình trong thế giới bên ngoài mà thôi: cái tôi đích xác tồn tại cho một lẽ cộng đồng, với thứ bậc, vị trí, uy tín xã hội và muôn vàn mối quan hệ tương giao.


Tiểu thuyết “Một ví dụ xoàng” của Nguyễn Bình Phương.

Trong văn chương, hào quang không phải là dĩ nhiên. Yêu mến văn chương Việt Nam thì sẽ nhìn thấy ngay: chỉ trong hai năm qua, các cuộc thi, cuộc vận động sáng tác, giải thưởng… có vẻ trở nên nhiều hơn, là để tìm kiếm một hào quang còn thiếu. Với những người làm công tác tổ chức hay quản lí về văn nghệ, họ kì vọng vào các cuộc thi, cuộc vận động và giải thưởng như những công cụ có thể giúp tìm ra những cây bút mới ngoài kia, nhất là khi không gian sinh hoạt văn hóa đã thay đổi nhiều so với trước đây, không còn dồn tụ lại ở một vài tờ báo lớn. Không có cuộc thi hay giải thưởng, sinh hoạt văn chương mất đi sinh khí, thậm chí là không có dáng hình. Ngày nay ai cũng có thể ra sách, và với một chút ngân sách tiếp thị, cùng sự ủng hộ khéo léo mang tính bằng hữu xã giao, người ta hoàn toàn có thể trở thành một tác giả có nhiều người để mắt. Nhưng ai sẽ đứng bên lề ghi lại những chuyển động của một nền văn chương – cái mà không gì khác, chính là tâm thức của một thời đại. Việc có các hệ thống giải thưởng văn chương làm cho nền văn học trở nên có xương sống. Xương sống tỏa nhánh ra từng đốt khâu, làm cho văn chương có hình hài và có quyền hi vọng được nâng tầm vóc.

Đương nhiên giải thưởng văn chương cũng có những mặt trái của nó. Giải thưởng cố định và hạn chế tác phẩm, vì dẫu sao, giải thưởng vẫn là những giá trị được khoác lên dựa trên quan điểm của một ban giám khảo. Giải thưởng cũng sinh ra những tác giả sống vì giải thưởng, vì ở họ, cái khát khao vui vầy trong một thế giới của những người cùng đam mê lại mạnh hơn khát khao sáng tạo. Người đoạt nhiều giải thưởng thường tư duy văn chương như một màn tiến thân: chinh phục cuộc nhỏ rồi mộng mơ cuộc lớn. Giải thưởng làm cho họ ngấm những khôn khéo kì cuộc, lại chuốc vào mình nụ cười mãn ý và hơi thở khinh bạc của kẻ hiểu sự, và rồi dẫu tỉnh ra nhưng không sao khác được, họ quên mất rằng sự nghiệp của một nhà văn là phải xây dựng thế giới quan đặc sắc và tìm ra chân lí riêng tư của những điều họ đặc biệt quan tâm. Cái bẫy danh vọng thì ở đâu cũng có, nhất là khi thế gian quá nhiều cuộc thi sẵn sàng trao cho nhà văn những tấm kỉ niệm chương chói lòa.


Tiểu thuyết “Nắng thổ tang” của Đinh Phương.

Nhưng giờ đây, các điểm yếu của những giải thưởng sẽ được bù lại bởi những tranh luận xung quanh nó: công chúng có cơ hội phản biện giải thưởng, đọc những tác phẩm bị loại và tái xếp hạng các tác phẩm theo quan điểm của riêng họ. Giải thưởng tạo dịp vui cho giám khảo trở thành độc giả và kích thích các độc giả trở thành giám khảo. Thế nên, việc xây dựng một giải thưởng văn chương với quy trình minh bạch, quan điểm rõ ràng cũng như phong cách sắc nét là điều tối quan trọng của những nhà tổ chức.

Mọi nhà văn đều không thiếu khôn ngoan để tránh những bẫy. Nhưng ở đây tôi muốn nói đến chiến lược tồn tại của một cây bút: một nhà văn giỏi sẽ biết khi nào họ thực sự cần giải thưởng, còn khi nào thì không. Họ cần giải thưởng vì họ cần một động lực để hoàn thành một tác phẩm nhọc nhằn. Họ cũng có thể cần giải thưởng vì điều đó sẽ mang lại những mối quan hệ mới, và mở ra một cánh cửa đi vào thế giới khác, giúp họ có thêm hơi thở đời sống để bật ngọn lửa sáng tạo. Mọi điều ấy đều quan trọng và chỉ có những cây bút hoặc với tài năng quá lớn hoặc với một mặc cảm của sự không được công nhận mới đi bỉ bôi các giải thưởng.

Những giải thưởng luôn có nhịp của nó. Chọn lựa của nó, phán quyết của nó không hẳn chỉ tác động đến sinh thể tác phẩm hay mạch ngầm của văn học, mà chính nó có lúc phải tiến lên táo bạo, sẵn sàng gây tranh cãi, hoặc lùi lại để chờ đợi, hoặc tìm một chỗ víu thật vững trước khi nhấc gót chân viễn dụ. Với sứ mệnh là một trong những giải thưởng lớn, mang tầm vóc của quốc gia và cho thấy lăng kính của một nền văn học, Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam là điểm cao trào cuối của những công cuộc thầm lặng diễn ra trong suốt một năm. Cái công cuộc ấy không phải chỉ là sáng tác, mà là nhìn nhận. Chừng nào giải thưởng còn mang lại một cảm giác chờ đợi và khai phá, chừng đó người ta còn tin tưởng vào một nền văn học lành mạnh.

Kể từ năm 2021, Hội Nhà văn Việt Nam xây dựng các hạng mục giải thưởng riêng cho văn học thiếu nhi và tác giả trẻ, như là một động tác lấy lại thế đứng và điểm tựa cho một cú phóng đi trong tương lai gần. Những mơ ước về việc xuất khẩu văn học Việt Nam cũng như đưa tác phẩm tiệm cận đến các giải thưởng lớn trên thế giới hẳn không phải là một tầm nhìn thấp. Đó không phải là ước mơ về sự đổi mới hay cải cách, mà là hoa tiêu của việc tái ổn định. Bất cứ một xạ thủ nào muốn bắn vỡ tan một đích ngắm thì trước tiên cũng cần phải chọn chỗ thật đúng, lựa dáng đứng chuẩn theo lí thuyết và bình ổn tinh thần. Sau những mùa trao giải ít nhiều gây tranh cãi, giải thưởng của năm 2021, với Hội Nhà văn Việt Nam, thật sự gánh chịu nhiều áp lực. Đây không phải là một năm văn học Việt Nam nở rộ: người ta đi giữa khu vườn văn học, thấy xung quanh nhiều đốm sắc màu của những thứ kì hoa mới nở, nhưng đưa tay ra hái thì khó ngắt được một bông nào đã xòe cánh. Thế nhưng, để hiện thực hóa cái ước muốn khai phá thêm những tài năng mới, hoặc chỉ để lạnh lùng thầm thì rằng diện mạo của chúng ta đã khác rồi, cần phải có một năm bản lề.


Tiểu luận “Văn bản văn học và sự bất ổn của nghĩa” của Trương Đăng Dung.

Luôn luôn có những chuyển động rõ nét nếu ta thực sự muốn nắm bắt. Những quyển sách được trao Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2021 – tất nhiên được xác quyết bởi bàn tay của những người chấm giải – tự thân nó ẩn chứa tâm thức của thời đại và diện mạo cũng như tinh thần hiện có của một nền sinh hoạt nghệ thuật. Khởi đi từ một (hay nhiều) cái chết, Nắng Thổ Tang (giải Tác giả trẻ) và Một ví dụ xoàng (giải hạng mục văn xuôi) bám lấy câu chuyện của những vụ án để từ từ khai mở những chuyện về đời sống trong thế giới hiện đại (Một ví dụ xoàng) hay trong quá khứ xa (Nắng Thổ Tang). Cả hai tác phẩm, tất nhiên được khởi viết trước năm 2021, trở về với lớp lang của tự sự thuần thành: không còn là cuộc chơi của mã hóa văn bản, ra đời với những cái tên giống như là ngón tay của tác giả chỉ định đích danh (“một ví dụ”, “Thổ Tang”). Dùng những sự kiện đã từng có thật, những phiên tòa với địa điểm đích xác, không mơ hồ… làm trung tâm, các nhà văn đưa ra diễn giải của mình và cho thấy bản chất xã hội của con người có thể giải thích được ở mức độ nào đó. Hai cuốn sách buộc ta phải đọc đến cuối để nắm được toàn bộ ngữ cảnh, xen giữa những câu chuyện chương hồi, những góc nhìn khác của người trong cuộc (bằng các hình thức như ghi chép, miên thoại với người chết, hay độc thoại nội tâm).

Đã đến lúc cần nhìn lại thực tại văn học, không phải vì đã có thêm nhiều gương mặt văn chương mới, mà là vì nhu cầu của nền văn chương tiếp tục cần nhà nghiên cứu phê bình nhập cuộc hết mình và kể được câu chuyện của họ, dẫu là một câu chuyện nhỏ.

Văn bản văn học và sự bất ổn của nghĩa (Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2021 ở hạng mục nghiên cứu phê bình) tập hợp hơn hai mươi tiểu luận của Trương Đăng Dung. Trong hai năm qua có rất nhiều tập sách nghiên cứu phê bình ra đời, trong đó có những cuốn sách chín chắn xen lẫn cả những cuốn sách xuất hiện vội vàng. Đi vào cuốn sách của Trương Đăng Dung, ta có thể thấy bàn tay sắp xếp của người viết sách (và điều này mới xứng đáng làm nên giải thưởng: viết văn học và đọc văn học là gì nếu không phải là những động tác sắp xếp) cẩn trọng đến chừng nàọ Xuyên suốt hai mươi sáu chương, hiển lộ một người đang nhẫn nại làm rõ mồn một những hỗn loạn của lí thuyết: khoa học văn học là gì, đối tượng của nó là gì và có nên nhầm lẫn đối tượng của lí luận văn học với phê bình văn học hay không; chủ thể là gì và tại sao ta phải quan tâm đến cả chủ thể sáng tạo lẫn chủ thể tiếp nhận; văn bản – đối tượng của lí thuyết và tiếp nhận – là gì và không phải là gì, nó có thể chuyển động như thế nào và giới hạn của chúng ta đến đâu khi cố gắng xử lí nó… Tiếp đó, chúng ta đi đến những hệ thống mĩ học khác nhau trước khi bập vào một thế giới văn bản cụ thể: Franz Kafkạ Con đường lớp lang này xoay vòng quanh một trụ cột “sự bất ổn của nghĩa”.

Ba tác phẩm trên đây gặp nhau ở một sự kiện lớn của văn học Việt Nam 2021 phần nào tạo ra một mỏ neo vững chắc cho những hi vọng sắp tới của một nền văn học đang chuyển mình. Trên một tờ báo, sau khi Giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam 2021 được trao, có độc giả nói như thế này: “Rất mừng là thời gian gần đây những giải thưởng cho văn học, cho sách đã ít nhiều tiệm cận giá trị”.

 Đức Anh/VNQĐ

 

Bài viết liên quan

Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm