- Truyện
- Bản valse nửa đêm | Truyện ngắn dự thi của Lê Linh Chi
Bản valse nửa đêm | Truyện ngắn dự thi của Lê Linh Chi
Tôi là nhân viên bán hàng cho một thương hiệu đắt đỏ ở một Trung tâm thương mại sang chảnh giữa Sài Gòn. Hòa đồng với không khí nơi đây, chúng tôi nói chung đều có vẻ sáng bóng, văn minh, tạo cảm giác thanh bình, ngọt ngào cho mọi người, khi họ chỉ bước thoáng qua.
“Chúng tôi” bao gồm tôi và các bạn gái của tôi. Hầu hết mối quan hệ của chúng tôi bắt đầu khi họ đi cùng với cánh đàn ông giàu có đến cửa hàng mua sắm, đa số là mua cho họ, thi thoảng mua cho cả hai. Sau vài ngày họ trả lại món hàng đó, lúc đầu có đưa vài lí do vu vơ, sau khỏi cần, tôi sẽ hoàn trả lại tiền và thu phần trăm hợp lí.
Chúng tôi đều là những con người dễ chịu, quen chiều ý người khác và đều đẹp, nên chúng tôi dễ có tình cảm với nhau. Các bạn gái của tôi không so sánh chuyện chồng con với chị em đồng trang lứa. Họ sở hữu nhan sắc hái ra tiền và tìm các giá trị cuộc sống bằng đồng tiền đó, nên cũng không thấy trống trải vì sự thật là họ rất bận rộn. Có người nói:
- Đàn ông Việt Nam vừa được ăn lại vừa được chửi. Ba em hồi đó tới bữa là má phải dọn cơm đúng giờ, ngồi bàn riêng, đồ ăn phải sôi trên bàn, tụi con nít phải ở cách xa, cứ “tiên sư chúng bay!”.
Cô ta cười khúc khích trong giây phút ôn kỉ niệm về người cha quá cố đang nằm sâu dưới mảnh đất vắng vẻ hiếm người qua lại. Có cô nói:
- Hồi đó cứ mỗi lần ổng nhậu say về là mấy mẹ con dắt nhau ra chuồng heo ngủ, sáng về. Nên, ở một mình cho sướng.
Tôi xem đó như những thông điệp nhắn gửi tôi, rằng họ không có ý định tính chuyện lâu dài, và thấy cũng thỏa đáng. Tôi không có kí ức nhiều về ba tôi. Ông bỏ đi khi tôi bốn tuổi. Tôi nhớ phần lớn thời gian trong ngày ông sống bên nhà máy xay lúa, cách nhà không xa. Kỉ niệm duy nhất tôi giữ là thỉnh thoảng ông đặt hai chân tôi lên hai bàn chân ông rồi nắm tay tôi đi tới mươi bước, đi lui mươi bước. Sở dĩ tôi nghĩ nhiều đến chuyện mấy ông bố là do hôm qua tôi nhận được một cuộc điện thoại, người gọi cho biết ba tôi đang rất yếu và muốn tôi đến gặp ông. Cuộc hội thoại ngắn ngủi nhưng bất ngờ ấy mở ra vô số những cánh cửa trong tâm trí tôi, gió từ những cánh cửa đó khi thì ngược hướng, khi hòa quyện nhau bay xa.
Tôi nghĩ, nếu trong vòng 10 năm, khi xưa ông đã từng xây dựng nên một nhà máy xay lúa có tiếng trong vùng, thì trong 20 năm nay, hẳn ông cũng làm được một điều gì tương tự. Giả sử mất 10 năm khởi nghiệp chật vật nơi xứ lạ, ông cũng đã có 10 năm ăn nên làm ra. Giả sử ông có thêm 5 người con khác, trừ hao thêm một bà vợ còn sống, thì tôi cũng có một phần không nhỏ. Nếu không có ý định chia cho tôi thì ông nhờ người nhắn gặp tôi làm gì?
Lập luận này dẫn dắt tôi tới những thao tác tiếp theo, thay đổi cuộc sống tôi theo hướng sôi động hơn. Tôi xem xét các căn nhà đang rao bán. Dựa trên các giả định của tôi về tài sản ba tôi, tôi chú ý tới phân khúc nhà phố tầm 5 tỷ đổ lại. Tôi suy tính không biết nên mua nhà trong hẻm để có diện tích lớn hơn, hay chấp nhận mua nhà nhỏ nhưng mặt tiền để dễ buôn bán, vì như nhiều người trẻ khác, tôi cũng muốn mình thành ông chủ nhỏ, tự quản, tự quyết.
Vì đây là cơ hội ngàn năm có một, nên tôi nghĩ cần cân nhắc kĩ. Bán hàng online cũng có thể kiếm tiền khá, nên không nhất thiết phải ở khu trung tâm. Vậy, nếu tôi chịu mua đất ở xa trung tâm, xây nhà mới toanh, có sân bao quanh nhà thì vẫn có thể là một khởi đầu hoàn hảo. Tôi sẽ tạo một khu vườn trên sân thượng, chăm sóc cây và vài con chó. Tôi quyết định xây nhà nhỏ, dành phần đất chung quanh nhà để làm chỗ cho chúng chạy chơi. Với số tiền tôi dự kiến có, thì miếng đất sẽ không lớn lắm, nên một bên hông nhà tôi sẽ chừa ra tầm 3 mét để xe ra vào, bên hông kia tôi chỉ chừa ra 1 mét, tạo cho chúng một chu vi vài chục mét để đi lại thoải mái. Khi chờ mua thức ăn ngoài phố, tôi tranh thủ ngắm nghía các căn nhà gần đó, hình dung ra căn nhà tương lai. Khi có việc đi lại quanh khu nhà trọ, tôi quan sát một số căn nhà, dự định sẽ bắt chước mỗi nơi một số điểm. Nếu có căn hơi sang, tôi tự nâng số tiền mà tôi dự kiến được chia, vì bao nhiêu cũng là con số khả thi. Sau khi đối chiếu, cắt ráp, về cơ bản, tôi đã phác họa được ngôi nhà tương lai. Chỉ mỗi một điểm hơi lăn tăn là không biết nên chừa trống bên hông nhà 3 mét hay 4 mét vì tôi chưa dứt khoát sẽ sắm xe loại nào. Nhưng chuyện này tôi nghĩ có thể quyết định sau.
Rồi cũng tới thời điểm tôi được hẹn để gặp cha tôi. Tôi bắt xe ôm đến địa điểm. Đón tôi là một anh chàng trạc tuổi tôi, có vẻ nhanh nhẹn, dễ chịu. Anh ta dắt tôi vào công viên dưới gầm cầu, rồi đi sâu đi mãi vào bên trong, dù trên đường có nhiều hẻm nhỏ rẽ quanh co, nhà xập xệ, có vẻ đa số đàn ông trong những căn nhà đó đều đang tụ tập ngồi ăn nhậu bên ngoài. Họ im bặt quan sát chúng tôi từ xa cho tới gần, cả khi chúng tôi đã đi qua họ. Tới cuối công viên, cạnh bờ sông, anh ta ngừng lại, đứng chờ tôi bên cạnh một túp lều được dựng tạm từ những tấm bạt sọc xanh đỏ, anh ta chỉ vào, nói:
- Ba anh ở đây.
Tôi nhìn vào bên trong. Dưới bóng đèn led, mọi thứ sáng quá mức, sự vật trơ ra đó như trái tự nhiên khiến tôi thấy lạc lõng, nhất là khi trên giường là một người đàn ông gầy đét, mắt nhắm nghiền, da trắng bệch và từ xa, tôi cảm thấy ông toát ra khí lạnh như khi đứng gần một tảng thịt đóng băng. Thấy tôi đứng chần chừ, anh chàng dẫn đường nói:
- Để em lấy ghế.
Rồi rất nhanh, anh ta trở lại với cái ghế đẩu, chắc mượn của bàn nhậu gần đó, anh đặt vào trong lều rồi nói:
- Anh ngồi chơi, em phải chạy sô, lỡ hẹn rồi nên không hủy được, nhưng em sẽ cố về sớm.
Anh ta đi mất. Tôi ngồi xuống ghế và khi có một mình, tôi thật sự không biết phải làm gì. Một người dù xa lạ, vài câu hội thoại ngắn ngủi ít ra cũng cho tôi cảm giác mình đang thuộc về một nơi nào đó. Nhưng bây giờ mới hoàn toàn không có gì, hoàn toàn trơ trọi, xa lạ ở không gian này. Tôi cảm thấy khí lạnh, từ người mà tôi mới biết là cha tôi, thổi lan sang tôi. Tôi thấy không khí như mỗi lúc một lạnh hơn. Chốc chốc có người đi ngang, trong bóng tối không hiện rõ mặt, chỉ có đôi mắt là hiện rõ cái nhìn soi mói vào bên trong, chủ yếu xoáy mạnh vào tôi. Tôi bước ra ngoài, hy vọng dòng sông có thể mang tới sự thanh bình. Nhưng bờ sông cũng chỉ dài độ 20 mét, hai bên còn lại là những ngôi nhà tạm bợ đang chờ giải tỏa. Tôi chọn một nơi trống trải nhất để đứng nhìn ra sông, chẳng máy chốc, tôi nhận ra dưới chân tôi nước tuôn ra xối xả, chảy tới một khoảng xa hãy còn sủi bọt. Hóa ra nơi tôi đứng là cống lớn xả nước thải từ hàng ngàn căn hộ ra sông. Bên cạnh tôi là bãi rác tự phác của cả trăm căn hộ không chịu tốn tiền cho dịch vụ đổ rác. Sau lưng tôi là hàng bông giấy to cao, phát ra mùi khai thối, lâu lâu có người đi tới, đứng sát bụi cây, tiểu rồi rời đi, lối về đi ngang qua túp lều ba tôi nằm. Nhìn xa hơn, nơi tối nhất, tôi thấy có mấy người đang ngồi khom lưng chích choác. Ngẫm nghĩ, thấy mình cũng có bề ngoài tươm tất, tôi hoảng, thấy bên trong túp lều dù buồn bã nhưng dù sao cũng an toàn.
Tôi quay lại túp lều, ngồi xuống ghế, cảm thấy khó xử. Đi về mà chưa gặp lại người dẫn tôi tới đây thấy cũng không ổn, vì dù kiểu gì, cũng nên có một sự kết thúc. Nên, tôi đành ngồi chờ anh ta để xem anh ta có ý định dẫn dắt việc này như thế nào. Tôi vẫn cảm thấy hơi lạnh thấm sâu vào tôi, vẫn cảm thấy có những đôi mắt chốc chốc lại xuất hiện quan sát tôi. Tôi ngồi yên, cố không suy nghĩ, không nhìn vào người đàn ông đang nằm bất động, mà tôi thấy hình như ông đã chết rồi. Cũng thoáng chút lo ngại liệu không biết anh ta có định đẩy việc hậu sự cho tôi không? Nếu là vậy, tôi sẽ từ chối vì cho tới nay, không có gì chứng minh tôi và ông ta là thân thuộc hết.
Tạm ổn được ít lâu thì tôi nghe như có tiếng rên khe khẽ, lúc đầu không rõ rệt, càng lúc càng to hơn, tiếng rên kéo dài, ngân nga trầm bổng rồi kết thúc bằng một tiếng thét lớn, ngay sau đó là một con mèo phóng ra từ gầm giường cha tôi nằm, gần như cùng một lúc là một con mèo khác vụt bám đuôi, cố tranh miếng thức ăn từ con chạy trước. Không gian trở lại yên ắng. Tôi nhìn gầm giường, tự hỏi không biết còn con mèo nào ở đó nữa không. Bỗng tôi thấy mấy ngón tay cha tôi khẽ động đậy, rồi bàn tay ông run rẩy dựng lên, vụng về vẫy vẫy trong khi cơ mặt ông nhúc nhích, trông như nhăn nhó. Tôi chợt nhớ tới những câu chuyện tôi nghe hồi bé, rằng khi mèo chạy qua xác chết, người chết sẽ sống dậy. Tôi thấy túp lều trở nên nguy hiểm, nguy hiểm hơn bên bờ sông tối om có người đang phê ngoài kia, nguy hiểm hơn bất cứ nơi nào tôi từng đến, vì thế giới ma quái cõi âm là nơi tôi chưa từng đến. Tôi phóng nhanh không kém con mèo khi nãy, bắt xe về thẳng nhà trọ.
Ngày hôm sau tôi không thấy động tĩnh gì. Qua ngày sau nữa tôi thấy anh ta gọi tới. Tôi bắt máy, nghĩ, nếu anh ta muốn tôi chịu chi phí chôn cất thì tôi sẽ liệu, nếu không từ chối được thì sẽ chi một ít. Bên kia đúng là giọng của anh ta:
- Dạ, là em nè anh. Ba anh đi sáng hôm qua rồi anh.
Thấy tôi im lặng, anh nói như phân bua:
- Tại dân địa phương cũng không muốn mình quàng lâu, nên ban nhạc tụi em mang thiêu sáng nay. Ba anh muốn anh đi với em rải tro xuống sông. Tối nay anh có rảnh không thì đi với em.
Tôi theo định vị anh ta gửi, bắt xe tới chỗ hẹn, Đó là một quán cà phê ở nội thành, nhưng vắng người qua lại dù đang giờ cao điểm, được xây tạm bợ bằng vật liệu nhẹ nhô ra sông. Thấy tôi, anh vội vã chạy ra đón, rồi chỉ vào hũ sành trên bàn, anh nói:
- Giờ em đàn một bản tiễn ba anh rồi mình rải cốt. Ba anh thích bài “Bản valse nửa đêm” lắm, để em đàn bài này cho ba anh nghe lần cuối.
Anh mở hộp đàn, bắt đầu đàn, trở thành một con người khác. Lúc thường, anh trông cũng giống những người chào hàng ở siêu thị, hay một người bưng bê ở quán ăn. Khi đàn, anh trở nên con người khác, không giống tôi, không giống bất cứ ai, là con người của thế giới xa xôi. Xa xôi tới nỗi tôi chỉ vài lần thoáng nhìn thấy, rất mơ hồ, cũng không chắc. Thế giới trong đó chỉ có suy tưởng, đam mê, không có ai phải bò sát đất vì tiền. Bản nhạc anh ta đàn có giai điệu dìu dặt, da diết, câu cuối bỗng vút cao, không biết là đỉnh điểm của nỗi buồn hay của niềm hy vọng. Tôi trầm trồ:
- Anh đàn hay thật!
Anh nhìn tôi, vẻ ngạc nhiên:
- Không đâu. Anh phải nghe ba anh đàn kìa!
Vừa cất đàn vào hộp, anh vừa nói:
- Ba anh nói, mấy anh em của anh không ai thích đàn.
Tôi muốn hỏi anh ta có phải là con của cha tôi không, nhưng anh đã không nói thì có nghĩa anh không muốn nói. Anh khóac vội hộp đàn lên vai, nói:
- Thôi mình về, tụi em có sô. Nghề này, một năm chỉ kiếm tiền vài tháng thôi, nên tới mùa là phải ráng chạy sô, chứ tụi em buồn ngủ lắm.
Không chờ tôi trả lời, anh quay người dợm bước đi, tôi vội nói:
- Mà anh ơi, ba tôi có hay vẫy tay chào khán giả không?
Anh trố mắt nhìn tôi, cười:
- Không đâu anh, tụi em chủ yếu biểu diễn đám tiệc, hiếu hỷ này nọ, xong là về thôi, không ai để ý đâu.
Rồi thoáng ngập ngừng, anh nhìn vào mắt tôi:
- Nhưng, có mấy lần em vô tình thấy ba anh vẫy tay như chào khán giả. Có khi ngồi một mình, có khi đứng trước gương. Chắc cho vui thôi.
Nói xong anh đi vội về con đường nhỏ trước quán, hình như ai đó đang chờ anh. Tôi không chắc vì trời tối đen tuy chưa tắt nắng được bao lâu. Nơi tôi sống phần lớn thời gian trong ngày là nơi xa hoa nhất trong một thành phố được xem là giàu nhất nước. Nơi đó không có bóng tối, càng về khuya, càng rực rỡ ánh sáng, càng bùng cháy cảm xúc, thắp sáng những hy vọng, đốt cháy những ảo mộng. Nhưng ở quán cà phê này, bản nhạc tôi vừa nghe thì đúng là bản valse nửa đêm.
L.L.C