TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt

Tiểu thuyết “Trưng Nữ Vương” – Bản tráng ca về những Nữ Vương đầu tiên của đất Việt

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2024-09-05 15:04:34
mail facebook google pos stwis
87 lượt xem

Hỏa Diệu Thúy

 

Bà Trưng quê ở Châu Phong,

Giận người tham bạo thù chồng chẳng quên.

Chị em nặng một lời nguyền,

Phất cờ nương tử thay quyền tướng quân…

(Đại Nam quốc sử diễn ca)

Hầu như không đứa trẻ Việt Nam nào từ cấp tiểu học không nhớ đoạn diễn ca về Hai Bà Trưng, hai nữ anh hùng của lịch sử Việt Nam. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (40 - 43 sau công nguyên), cuộc khởi nghĩa đầu tiên chống lại ách đô hộ một nghìn năm Bắc thuộc, giành lại nền độc lập tự chủ: Lĩnh Nam riêng một triều đình nước ta, được lãnh đạo bởi những người phụ nữ còn rất trẻ, mới qua tuổi đôi tám. Tuy nhiên, vì nhiều lý do, những biên chép về cuộc khởi nghĩa hào hùng ấy cũng như triều đại Trưng Vương không được đầy đủ, thậm chí chỉ được ghi lại mấy dòng ngắn ngủi trong sử cũ. Điều này là nỗi quan hoài của những người quan tâm đến lịch sử dân tộc, cũng là của các cây bút đam mê tiểu thuyết lịch sử.   

Bộ tiểu thuyết Trưng Nữ Vương (hai tập) của tác giả Phùng Văn Khai ra mắt như sản phẩm văn hóa giàu ý nghĩa tới độc giả, thỏa mãn mong muốn tìm hiểu về một giai đoạn lịch sử tuy ngắn ngủi nhưng thật hào hùng, được dẫn dắt bởi những nữ anh hùng. Cầm trên tay bộ tiểu thuyết lịch sử Trưng Nữ Vương không khỏi thán phục nội lực và niềm say mê cổ sử của nhà văn quân đội. Dường như cây bút họ Phùng này đã tìm trúng mạch sáng tạo cho riêng mình, nên chỉ trong vòng hơn mười năm, 7 bộ tiểu thuyết lịch sử liên tiếp ra mắt, lại tập trung ở phần “Ngoại kỷ”, tức phần cổ xưa nhất, ít tư liệu nhất trong cả chính sử lẫn huyền sử.

Bộ tiểu thuyết Trưng Nữ Vương gồm hai tập: tập một tương ứng với giai đoạn thanh nữ Trưng Trắc, trưởng nữ của quan huyện lệnh Trưng Định (Lạc tướng đất Mê Linh) xinh đẹp, giỏi võ nghệ nên duyên cùng Thi Sách, trưởng nam của huyện lệnh Dương Thái Bình (Lạc tướng đất Chu Diên), một trang tuấn kiệt. Hóa ra, cả hai đều dòng dõi Lạc hầu, là hậu duệ con cháu vua Hùng. Đất Mê Linh và đất Chu Diên, dưới sự dẫn dắt của hai Lạc hầu tài giỏi, khí phách, đã trở thành hai vùng đất hùng mạnh khiến các Thái thú được cắt cử trị nhậm từ phương Bắc xuống rất nể vì. Song, khi thái thú Tô Định, kẻ được trị nhậm thay thế là kẻ vốn tham lam, tàn ác, để thị uy, hắn trấn áp những huyện lệnh địa phương có uy tín, hùng mạnh. Huyện lệnh Mê Linh, huyện lệnh Chu Diên, huyện lệnh Bắc Đái đã vào tầm ngắm của hắn. Tô Định cùng với bộ hạ bày mưu giết những huyện lệnh uy tín này. Bạo ngược hơn nữa, hắn tiếp tục dùng thủ đoạn hèn hạ giết Thi Sách, trưởng nam huyện lệnh Chu Diên khi chàng thanh niên đang chịu tang cha. Tô Định không thể ngờ, tội ác vô nhân của hắn không những không làm cho dân Giao Chỉ khiếp sợ, mà ngược lại, đã thổi bùng ngọn lửa căm phẫn, bất bình của người dân nơi xứ sở thích bình yên, hòa mục này. Trưng Trắc, tuổi  mới qua đôi tám, trên đầu vừa mang tang cha vừa mang tang chồng đã phất cờ tụ nghĩa với lời hịch khí phách: Một xin rửa sạch nước thù/ Hai xin nối lại nghiệp xưa họ Hùng/ Ba kẻo oan ức lòng chồng/ Bốn xin vẻn vẹn sở công lênh này (Thiên Nam ngữ lục). Tập một của bộ tiểu thuyết dừng ở sự kiện: những thủ hạ sừng sỏ nhất của Tô Định được sai đi trấn áp mầm mống của cuộc khởi nghĩa như: Tào Quyên, Sầm Lân, Sầm Bá, Ngụy Húc… đều nhận thảm bại, kẻ bị chém đầu, kẻ bị chết trong đám loạn quân, kẻ đầu hàng nhục nhã. Sau khi hạ thành Cổ Loa, đoàn quân hừng hực khí thế kéo tới kinh thành Luy Lâu. Số phận của thái thú Tô Định và tư mã kinh thành Mã Tắc như cá nằm trên thớt.

Thành công của tập một hé lộ sức cuốn hút của lối viết sôi nổi, giàu cảm xúc. Người đọc thích thú được trải nghiệm với không gian Giao Chỉ xưa, vùng đất của những thảm rừng nhiệt đới rậm rạp nhiều muông thú, lắm ao hồ, sông ngòi, lại giáp biển, tạo nên những tập tục văn hóa vô cùng phong phú, đa dạng. Người dân vừa giỏi săn bắn, chinh phục, thuần hóa muông thú, vừa giỏi sông nước, chinh phục thủy quái.

Ở tập này, độc giả còn được “diện kiến” những chân dung sống động: thanh nữ Trưng Trắc thông minh, xinh đẹp lại giỏi võ nghệ; chàng trai Thi Sách tuấn tú từ ngoại hình đến tính cách, tài năng. Họ là con của những Lạc hầu, Lạc tướng hùng mạnh. Được nuôi dưỡng, rèn luyện trong môi trường chọn lọc để trở thành những người kế thừa xứng đáng cai quản bộ tộc của mình. Điều này sẽ trả lời một cách thuyết phục cho câu hỏi: Vì sao một cô gái đang tuổi thiếu nữ lại trở thành lãnh tụ khởi nghĩa, biết tập hợp sức mạnh quy tụ lòng dân, dẫn dắt anh tài bốn phương, biết tổ chức trận đánh, biết dùng mưu nhử giặc, lấy yếu thắng mạnh, lấy ít địch nhiều.

Tập hai mở đầu bằng trận đại thắng kinh thành Luy Lâu. Sau thất bại của Tào Quyên và các tướng sừng sỏ và khí thế vũ bão của quân Hai Bà, thái thú Tô Định và tướng Mã Tắc rút vào kinh thành Luy Lâu chờ cứu viện. Tuy nhiên, Trưng Trắc không đánh thành ngay mà dùng kế vây thành để bớt đầu rơi máu chảy. Kế hãm thành này khiến quân Hán lo lắng, kiệt quệ. Tên thái thú ngông cuồng Tô Định chịu không nổi phải cắt hết râu tóc, cải trang thành thương khách nửa đêm lẻn xuống thuyền chạy trốn. Đại tướng Mã Tắc hay tin hộc lên ngã lăn ra bất tỉnh, quân Hán buông vũ khí đầu hàng. Sau 1000 năm Bắc thuộc, cõi Lĩnh Nam trở thành nhà nước độc lập, tự chủ với cương vực rộng lớn từ Lĩnh Nội đến Lĩnh Ngoại. Lĩnh Nội có Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và Lĩnh Ngoại là Nam Hải, Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, tới tận hồ Động Đình. Triều đình Lĩnh Nam lấy Mê Linh, đất cũ của các vua Hùng dựng nghiệp làm kinh đô.

Ở tập 2, chân dung nhị vương Trưng Nhị xuất hiện cũng rất tài ba thao lược. Trưng Nhị như cánh tay phải, luôn sát cánh giúp chị tổ chức, thị sát, phủ dụ bách tính thị tộc, vỗ về các vùng thượng du hạ bạn, đặc biệt là các vùng Lĩnh Ngoại. Trưng Nhị đã chủ động cùng nữ tướng Lê Chân bài binh bố trận đánh úp thủy trại Hợp Phố. Hàng trăm chiến thuyền của tướng Đoàn Chí đang được chuẩn bị tiến đánh phương Nam bị các nữ tướng trẻ tuổi: Trưng Nhị, Lê Chân, Phật Nguyệt đốt phá tan tác.  

Từ gợi ý của chính sử, Phùng Văn Khai đã dựng lại những trận thủy chiến thư hùng như trận Hợp Phố, trận Hồ Lãng Bạc, trận cửa biển Đằng Giang …cho thấy cư dân phương Nam từ xa xưa đã giỏi sông nước, quen đánh thủy, lý giải các đời sau quân phương Bắc tiếp tục 3 lần đại bại trong các trận thủy chiến ở cửa sông Bạch Đằng.

Ở tập 2, tác giả tiếp tục tái hiện hình ảnh nữ quân vương tài năng, mưu lược và nhân hậu, đặt cuộc sống của muôn dân trăm họ lên trên thù nhà, lấy lợi ích quốc gia, dân tộc làm nguyên tắc ứng xử với ngoại bang. Tiếc thay, thời gian dành cho công cuộc chấn hưng bờ cõi của Hai Bà quá ngắn ngủi. Không nuốt nổi mối nhục đại bại trước những thanh nữ phương Nam anh hùng, Hán Quang Vũ triệu cha con tướng Mã Viện đang trấn giữ mặt Bắc chống quân Hung Nô, phong làm Phục Ba tướng quân với quyết tâm thống thuộc lại phương Nam, lấy lại uy thế cho triều đình Hán Quang Vũ Đế. Tuy nhiên, kể cả khi lão tướng Mã Viện uy danh lừng lẫy kinh nghiệm chiến trường thân chinh trấn áp, quân Hán vẫn bị các nữ tưởng trẻ trung của Hai Bà đánh cho phải ôm đầu máu. Theo sử cũ, quân của Mã Viện sau khi bình định xong Giao Chỉ, trở về  chỉ còn một nửa so với lúc xuất phát. Song, trước một đội quân hùng hậu, quen chinh chiến trận mạc với những mãnh tướng dày dạn, lực lượng nghĩa binh của Hai Bà phần lớn là dân binh theo cờ tụ nghĩa, vũ khí sơ sài đã không trụ nổi. Nghĩa quân từng bước bị truy quét và tận diệt. Tuy nhiên, có một tồn nghi lịch sử chỉ được lưu truyền trong dân gian: Mã Viện phải dùng đến kế thứ 37 "Tam thập thất kế cởi truồng vi thượng sách" mới thắng nổi nghĩa binh của Hai Bà. Mã Viện (sau khi mất) bị các quan tấu lên lời đồn này, Hán Quang Vũ Đế tức giận tước thái ấp và tước hầu (!). Cũng theo dân gian, "Tam thập thất kế cởi truồng vi thượng sách" còn liên quan đến Lục Dận với khởi nghĩa của Bà Triệu, tuy nhiên, đây cũng chỉ là "lời đồn", tức ngoại sử. Dẫu vậy, lời đồn trong dân gian thường không ngẫu nhiên mà có, nhiều tình tiết kỳ ảo trong thần thoại, truyền thuyết tưởng chỉ có trong tưởng tượng, hoang đường ngày nay đã được chứng minh là có thật với sự phát triển của khoa học và ngành khảo cổ học. Chẳng hạn, Con ngựa thành Troy trong chuyện cuộc chiến thành Troy của thần thoại Hy Lạp; Nỏ Thần An Dương Vương trong truyền thuyết An Dương Vương; Gà chín cựa ngựa chín hồng mao trong thần thoại Sơn Tinh - Thủy Tinh v.v… Thời gian luôn có tác dụng thanh lọc, nhưng những gì cứ sống mãi trong ký ức nhân dân chắc chắn có lý do tồn tại. Với thể loại tiểu thuyết, tác giả hoàn toàn có thể dựng tình tiết hư cấu này từ lời đồn của ngoại sử. Đó là tình tiết đắt giá, tiếc lắm thay!

Vẫn với lối kể hào sảng và dí dỏm, bộ tiểu thuyết hai tập Trưng Nữ Vương đáp ứng khoái cảm trí tuệ và thẩm mỹ bằng phông kiến văn phong phú, cách cài cắm chi tiết phục bút, kết hợp hài hòa ngôn ngữ hiện đại và cổ xưa, tác giả đã cho người đọc hình dung sống động về lịch sử một thời đại bi tráng, tuy ngắn ngủi nhưng vô cùng kiêu hành của dân tộc.

Lịch sử dựng nước, giữ nước 4000 năm của dân tộc ta thật vô cùng hùng vĩ, hiếm có. Song, phần cổ sử, ngoài những dòng tổng kết, nhận xét sơ lược, chúng ta khuyết thiếu hẳn mảng văn chương có thể làm sống lại những trang sử hiển hách ấy.

Hành trình theo đuổi thể tài tiểu thuyết lịch sử của Phùng Văn Khai gợi cảm giác về một người đang nỗ lực hoàn thành sứ mệnh được giao phó bằng toàn bộ ý chí và niềm đam mê. Tác giả đã từng bước hoàn thành bằng sự nghiêm túc, cẩn trọng, hết lòng. Thán phục và yêu mến lắm thay!   

H.D.T

Bài viết liên quan

Xem thêm
Nhà thơ Nguyên Hùng với “Ký họa thơ” và “Trăm khúc hát một chữ duyên”
Phát biểu chia sẻ tại buổi ra mắt 2 tập sách Trăm khúc hát một chữ duyên và Ký họa thơ của Nguyên Hùng
Xem thêm
“Nắng dậy thì” Rọi lòng sâu thẳm
Nắng dậy thì là tập thơ thứ 4 trên hành trình sáng tạo của nhà thơ Nguyễn Ngọc Hạnh. Ở tập thơ này, Nguyễn Ngọc Hạnh thể hiện nỗi buồn thẳm sâu của một tâm hồn nhạy cảm, tha thiết yêu thương và đầy niềm trắc ẩn, như nhà thơ tâm sự: “Cho đến tập thơ này, nỗi buồn vẫn là nguồn mạch thơ tôi” (Thay lời mở). Thơ Nguyễn Ngọc Hạnh biểu hiện nỗi buồn gắn với một vùng quê cụ thể, với tình thân, bạn bè, người yêu, với dòng sông, bến nước, con đò, chợ quê hay cánh đồng làng. Những kỷ niệm thân thương và đau thương cứ “cằn cựa” trong tâm hồn người thơ để có những vần thơ độc đáo, đồng vọng trong lòng người đọc.
Xem thêm
Những vần thơ sáng nghĩa kim bằng
Nhà thơ Trinh Bửu Hoài là người bạn văn tốt của tôi đã quen thân nhau từ năm 1970 khi anh hoạt động văn nghệ ở An Giang. Cách nay hơn 10 năm, sau khi nhà văn quá cố Nguyễn Khai Phong đã vài lần giục tôi làm đơn xin gia nhập Hội Nhà văn Việt Nam cùng với tán thành của nhà thơ đánh kính Trịnh Bửu Hoài. Dù biết ở Cần Thơ mình là người mồ côi, kém tài lại vụng về trong giao tiếp nên ít có bằng hữu tình thâm, năm 1918, tôi vẫn đánh bạo nghe lời những người bạn tốt xin vô Hội Nhà văn Việt Nam với sự giới thiệu nhiệt tình cùng lúc của các nhà văn : Nguyễn Khai Phong, Trịnh Bửu Hoài, Lê Đình Bích, Lương Minh Hinh, Nguyễn Trọng Tín. Mặc dù biết rằng với mình, con đường về La Mã vẫn còn diệu vợi ! Hôm nay, nhà thơ Trịnh Bửu Hoài đã về với cõi Ly Tao bất diệt, tôi viết bài này để ân tình bày tỏ lòng nhớ ơn anh, một thi sĩ tài hoa nhân cách rất tốt với bạn bè.
Xem thêm
Nội trú trong ta một nỗi buồn
Bài viết của nhà thơ Đặng Huy Giang về “Năm ngón chưa đặt tên” của Đinh Nho Tuấn, NXB Hội Nhà văn 2024
Xem thêm
Thấy gì từ “Ký họa thơ” của Nguyên Hùng?
Bài viết của Lê Xuân Lâm, cộng tác viên tích cực của Văn chương TPHCM.
Xem thêm
Mấy điều bất thường xung quanh bài thơ “Màu thời gian” của Đoàn Phú Tứ
Không phải vì tác giả là người viết kịch, có duy nhất một bài thơ được chọn vào sách “Thi nhân Việt Nam” của Hoài Thanh và Hoài Chân, mà bài thơ này có tính bất thường. Trong sách của Hoài Thanh và Hoài Chân có những tác giả sau chỉ có một bài : Thúc Tề, Đoàn Phú Tứ, Vân Đài, Phan Khắc Khoan, Thâm Tâm, Phan Thanh Phước, Hằng Phương, Mộng Huyền. Có hai tác giả được nói đến mà không trích bài nào trọn vẹn là T.T.KH, và Trần Huyền Trân. Vậy thì bài thơ của Đoàn Phú Tứ bất thường ở chỗ nào?
Xem thêm
Về nương bậu cửa kiếm tìm an yên
Bài viết cho cuộc ra mắt tập thơ “Lục bát chân mây” của Võ Miên Trường
Xem thêm
Nguyễn Minh Tâm với ‘Ấm lạnh pháp đình’
Bài viết của nhà văn Nguyễn Văn Hòa
Xem thêm
Bồi hồi, thổn thức, bâng khuâng…
Bài viết cảm nhận của nhà thơ Hoa Ngọc Dung
Xem thêm
Bàn về tính lý luận trong các bài giảng của thầy và bài viết của trò hiện nay
Lý luận văn học Lý luận văn học (LLVH) là bộ môn nghiên cứu văn học ở bình diện lý thuyết khái quát nhằm tìm ra những quy luật chung nhất về văn học. Trong đó bao gồm sự nghiên cứu bản chất của sáng tác văn học, chức năng xã hội-thẩm mỹ của văn học, đồng thời xác định phương pháp lý luận và phân tích văn học. Lý luận văn học tồn tại như một môn học độc lập ở một số trường đại học; nó cũng là một phân môn cho sinh viên và học sinh THPT thế hệ trước. Cho dù độc lập hay là phân môn của môn Ngữ văn thì vai trò của LLVH là vô cùng lớn.
Xem thêm
“Lời của gió” - Lời của nước mắt, nụ cười
Tôi may mắn được người anh, người đồng nghiệp quý mến - Nhà thơ, Nhà báo Trần Thế Tuyển gửi bản thảo trường ca “Lời của gió” với tin nhắn giản dị, mộc mạc “Gửi chú đọc và thẩm cho anh”. Đọc thì đương nhiên rồi, nhưng không dám “thẩm”. Mấy lời sau đây tôi viết với tư cách là bạn đọc, là người em của Nhà thơ Trần Thế Tuyển.
Xem thêm
Không gian thiền tịnh và buông xả trong thơ Nguyễn Thị Sơn
Chùm thơ 4 bài: Thiền, Tịnh, Buông, Nhàn của nhà thơ Nguyễn Thị Sơn đã khái quát một không gian thơ mang tính tâm linh cho riêng mình, ở đó mỗi bài đều chứa đựng những tầng ý nghĩa sâu sắc về tâm trạng và trải nghiệm của con người. Những bài thơ này thể hiện sự kết hợp hài hòa giữa cảm xúc và trí tuệ, giữa thiên nhiên và tâm hồn. Mỗi bài thơ là một khía cạnh khác nhau của sự tìm kiếm sự an lạc và bình yên trong cuộc sống.
Xem thêm
Dòng sông tâm thức của Elena trong “Hạt bụi lênh đênh”
Trong những câu chuyện đan xen giữa thể loại tùy bút và truyện ngắn và tôi chọn 7 bài viết trong “Hạt bụi lênh đênh” để nói về “dòng sông tâm thức” của Elena đã trải qua .
Xem thêm
Nỗi buồn trổ bông và tình mẹ trong thơ Nguyễn Minh Ngọc Hà
Nguyễn Minh Ngọc Hà sinh năm 1985 tại vùng đất An Sơn thuộc thành phố Thuận An, tỉnh Bình Dương. Nơi đây vốn là chiến khu cách mạng hào hùng trong hai cuộc kháng chiến và là một phần của Vườn trái cây đặc sản Lái Thiêu nổi tiếng. Có lẽ đặc điểm, truyền thống quê hương đã sớm chắp cánh cho hồn thơ của chị. Ngay từ khi còn ngồi trên ghế nhà trường, trong đầu cô cựu học sinh lớp chuyên toán của trường trung học phổ thông chuyên Hùng Vương luôn phảng phất âm điệu của thi ca. Sau khi tốt nghiệp chuyên ngành Tài chính - Ngân hàng tại trường Đại học Kinh tế thành phố Hồ Chí Minh rồi vào làm việc tại một ngân hàng lớn chưa bao lâu, như duyên phận đã định trước, Nguyễn Minh Ngọc Hà “rẽ bước”, chọn nghề tự do để có thời gian dành cho văn chương nghệ thuật
Xem thêm