TIN TỨC

“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-09-25 15:36:48
mail facebook google pos stwis
744 lượt xem

Tập thơ "Lời ru bão giông" của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương. Bằng cảm nhận tinh tế, nhà thơ Nguyễn Thị Thanh Long đã chỉ ra những vần thơ biết nâng con người vượt lên giông bão để sống tử tế hơn. Và trong mạch đồng vọng ấy, chị viết bài thơ "Lời ru giông bão hóa vầng trăng say" như một khúc tri âm, tặng riêng cho tác giả.

Văn chương TP. Hồ Chí Minh trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.

NGUYỄN THỊ THANH LONG

“Lời ru bão giông” gồm 59 bài thơ, 59 câu chuyện về những thân phận, những mảnh đời thiếu may mắn, những phụ nữ chân yếu tay mềm, những mẹ già, những em nhỏ, những cuộc kiếm tìm đồng đội, thậm chí có khi tác giả thương cảm trò chuyện cùng cả những vật tưởng vô tri vô giác (nhành bưởi trắng, hay cây cột điện đứng giữa đường…). Trái tim đa cảm chứa nhiều nỗi đau, rồi những câu thơ tuôn chảy, chắt lọc từ những mất mát, thương yêu, thăng trầm số phận, nhưng vẫn ngân lên âm điệu dịu lành, ấm áp tình người. Đó cũng chính là thái độ sống của người cầm bút.

Bài “Lời ru bão giông” được tác giả lấy tên cho cả tập thơ, ta bắt gặp những câu thơ:

“À ơi tiếng mẹ ru con

 Chưa thành câu giọng vẫn còn trẻ thơ”

Một bé gái vị thành niêm phải làm mẹ, là nỗi thương thắt ruột cho phận đơn côi, chịu lời đàm tiếu. Bão giông ập đến cuộc đời em ư? Bà ôm con cháu vào lòng và cất lời ru “thấm ân tình” , “ Ngã rồi cây lại đâm cành nở hoa” không chỉ để an ủi, mà còn để nâng dậy vượt qua nghịch cảnh trái ngang. …Lời ru thấu đất trời, bão giông sẽ tan:

“Con ơi thôi hãy yên lòng

Vững vàng đi giữa long đong mà thành”.

Ở đây, tính nhân văn không dừng ở cảm thương, mà là niềm tin vào sức mạnh nội tâm của con người.

Tác giả Trần Hóa đau nỗi đau của những người dân bị bão lũ, đó là sự chia sẻ, tình yêu thương cộng đồng. Hình ảnh “Trang sách giáo khoa nhòe vào số phận” hay “Tiếng trẻ ê a đã lạc vào giông bão” trong bài “Bão dữ số 3 và quê Mẹ”, là tiếng nói xót xa cho tương lai trẻ thơ, cho giấc mơ học hành bị cuốn phăng trong một đêm bão dữ.

Qua từng bước chân người mẹ già tìm con nơi hàng mộ vô danh. Cái run rẩy của câu “Hàng mộ vô danh lặng lẽ đến rùng mình” câu thơ đã chạm đến trái tim của mỗi chúng ta, chúng ta cũng lặng đi và không thể cầm lòng. Trần Hóa đã biến nỗi đau riêng của một người mẹ thành nén tâm hương cho tất cả những anh hùng liệt sĩ để “sang năm Mẹ lại đến tìm”, như một lời thề khắc ghi.

Ngay cả khi viết về tình yêu tan vỡ trong “Chỉ cần em hạnh phúc”, một sự bao dung, không trách móc, không níu kéo, nhân vật trữ tình chấp nhận hi sinh: “Anh chấp nhận dẫu tim mình đau thắt”, miễn sao người mình yêu được hạnh phúc và trọn hiếu với mẹ cha.

Nỗi nhớ thương đồng đội đã hóa thành lời nhắn gửi nhân hậu: “Xin những con thuyền qua đó nhẹ tay bơi”. Trong bài “Chỗ bạn tôi nằm”, chỉ một câu thôi, đủ thấy tấm lòng nâng niu ký ức, trân trọng xương máu của những người đã ngã xuống cho hòa bình hôm nay.

Điều nổi bật trong thơ Trần Hoá là chất liệu nguyên sơ qua cuộc giông bão đời mình, được cất giữ dưới hình thức nghệ thuật chắt lọc. Những cơn “bão giông” ở đây không chỉ là bão giông của thiên nhiên, mà còn là bão giông của phận người: những bất trắc, mất mát, day dứt và cả niềm tin được tôi luyện trong thử thách. Tác giả không tô đậm bi kịch, cũng không sa vào than thở, anh chọn cách để chữ nghĩa chạm khẽ, nhưng đủ để người đọc nghe tiếng quẫy đạp của những tâm hồn muốn vươn về phía trước tốt đẹp hơn.

Điều đáng quý nhất là trong từng bài, từng câu, anh vẫn giữ được ánh sáng nhân văn. Anh tin vào sự hồi sinh sau đổ nát, tin vào sức mạnh của yêu thương như một điểm tựa vượt qua giông bão.

“Lời ru bão giông” vì thế không chỉ là một tập thơ để đọc, mà còn là một tấm gương soi, giúp người đọc nhận ra chính mình, những mất mát từng trải, khát vọng được sống tử tế hơn, ấm áp hơn.



Nhà thơ Nguyễn Thị Thanh Long

 

LỜI RU GIÔNG BÃO HÓA VẦNG TRĂNG SAY

                    Tặng tác giả Trần Hóa
 

Thương em - Một mảnh trăng gầy

Một nhành bưởi trắng đơm đầy nỗi đau

Ước gì anh có phép màu

Dáng Xuân trở lại - Trầu cau hẹn thề

Chân tình - Anh vạt nắng quê

Xót xa - Buông bỏ - Đường về Lệ hoa

Lâu đài bằng cát nhạt nhòa

Cần em hạnh phúc - em là mùa Xuân

Duyên tiền định, chớ phân vân

Thương lòng đã chữa mấy lần Trăng say

Về với anh, có những ngày

Giã từ - Bão dữ đắng cay qua rồi

Tháng Ba - Hạt nắng thềm rơi

Dẫn con về phía mặt trời - Mẹ ru

Tổ quốc tôi sạch bóng thù

Chiều nghĩa trang Mẹ - Mùa Thu thuở nào

Cánh cò thân mẹ chênh chao

Bạn tôi nằm đó, tạc vào núi sông

Tìm bạn, Tìm bạn dốc lòng

Lời ru giông bão hóa vầng Trăng say
 

10/8/2025 Nguyễn Thị Thanh Long

Chữ in đậm là tên các bài thơ trong tập thơ Lời ru bão giông của tác giả Trần Hóa.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm