TIN TỨC

Một cách nghĩ khác về tình yêu

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-09-16 05:31:55
mail facebook google pos stwis
419 lượt xem

Sáng 10/9/2025, tại Thư viện sách Trần Mai Hường, nhóm “Bạn văn & Miền chữ” đã tổ chức buổi sinh hoạt chuyên đề về tiểu thuyết "Hoa cho tình yêu" của nhà văn Hoàng Phương Nhâm – tác phẩm đoạt giải Khuyến khích cuộc thi sáng tác “Thành phố Hồ Chí Minh – 50 năm tự hào bản anh hùng ca”. Trong không khí ấm áp, nhà văn Đỗ Viết Nghiệm đã trình bày tham luận “Một cách nghĩ khác về tình yêu”, mang đến nhiều gợi mở sâu sắc về cách nhìn và sức sáng tạo của tác phẩm.

ĐỖ VIẾT NGHIỆM

Tác phẩm văn học viết về ma không hiếm, nếu không muốn nói là nhiều cả trên bình diện văn học và điện ảnh. Nhưng chính sự nhiều ấy, nên cách thể hiện cũng rất đa dạng và phòng phú. Tuy nhiên đa phong phú đến mấy, tư duy sức sáng tạo của các nhà văn, các nhà làm phim, cái lõi vẫn là thủ pháp. Chính thủ pháp làm nên danh tiếng, làm nên sự bất hủ của một tác phẩm.


Nhà văn Đỗ Viết Nghiệm chúc mừng nhà văn Hoàng Phương Nhâm với tiểu thuyết "Hoa cho tình yêu" - Ảnh: Nguyên Hùng

Hoa cho tình yêu của nhà Văn Hoàng Phương Nhâm, mang cái tên thật đẹp, thật ngọt ngào và thật quyến rũ, nhưng chủ đề tình yêu hóa ra chỉ là cái cớ nên câu chuyện cũng rất đáng bàn. Đáng bàn vì một nhà văn nữ có vóc dáng nhỏ nhắn, xinh đẹp, tưởng như yếu đuối, nhưng lại có tầm suy nghĩ thâm hậu và sâu sắc.

Hoa cho tình yêu như là tấm voan đẹp, cho các thiếu nữ làm duyên làm dáng, cùng nụ cười e ấp làm chết mê chết mệt bao đấng mày râu, nhưng phía sau tấm voan lại chuyển tải cả một câu chuyện vô cùng gai góc và phức tạp mang tính thời sự về một bi kịch. Theo nghĩa “đen”, đây là tác phẩm thuộc thể loại ma.

Dù vậy, Hoa cho tình yêu đọc rồi mới thấy có “ma”, nhưng lại không phải một cuốn sách viết về ma. Bởi Hoàng Phương Nhâm biết biến cái chết “vô tính” hóa linh hồn “hữu tính” cao đẹp, nhiều tầng, nhiều lớp, có danh, có phận, để những con người đó hồi sinh, khiến tâm thức ta cũng được hòa tan giữa cõi nhân gian mình đang sống.  

Lấy chủ đề tình yêu, Hoàng Phương Nhâm đặt cược vào cách nghĩ mà tôi cho là sự đột phá táo bạo. Để hóa giải một bi kịch từng xảy ra mang tính thời đại, không chỉ ở Việt Nam mà còn mang tính toàn cầu. Xong cũng nên hiểu, bi kịch con người do chính con người tạo ra đang phải đối mặt là không mới. Không mới, bởi nó có từ nhiều thời đại trước Công Nguyên. Thậm chí còn xa hơn nữa như Thế chiến Hy Lạp – Ba Tư (499-449 TCN), đánh dấu sự đối đầu giữa Phương Đông và Phương Tây. Hay cuộc chinh phạt của Alexander Đại Đế (334-332 TCN), mở rộng Đế chế Hy Lạp sang Châu Á. Thời kỳ Tam Quốc bên Tàu có chiến tranh Chu-Tần rất dài (453-221 TCN). Ở Việt Nam cũng có biết bao nhiêu cuộc chiến tranh đẫm máu qua các thời đại, mới nhất là cuộc chiến chống quân xâm lược Pháp, rồi chống Mỹ suốt 20 năm. Hệ lụy ấy để lại nỗi đau là người Việt Nam gánh chịu. 50 năm cuộc chiếm tranh kết thúc, bi kịch thù hận của người Việt từ hai phía vẫn còn là hố sâu vẫn chưa được khỏa lấp, mới thấy thù hận bằng máu quả là khủng khiếp. Dẫn dài chút như trên, bi kịch thù hận không còn là cá biệt khi nó đã mang tên nhân loại, trở thành định đề bản chất của con người nhiều kiếp trước.  

Hoàng Phương Nhâm là người phái đẹp viết văn, lấy lợi thế họ hiểu tình yêu hơn phái mày râu gấp nhiều lần, tin vào tình yêu để hóa giải bi kịch, “cứu rỗi thế giới” mà người ta ví lên sao hỏa còn dễ dàng hơn.

Câu chuyện bắt đầu từ một cặp tình nhân thầy giáo Bác sĩ An Đông, với cô sinh viên Y khoa Hiểu Tuệ. Họ có những cuộc hẹn hò, trao tặng cho nhau những bông hoa đẹp và ánh mắt nhìn say đắm bình thường như bao cặp tình nhân khác. Oái oăm thay lại bị cản trở bởi một bi kịch, mà cặp tình nhân trẻ không hề mong muốn đã diễn ra, nhưng điều đáng nói nó lại đến từ chính những người thân yêu nhất trong gia đình hai phía.

Bác sĩ An Đông chàng trai trẻ năng động, có lối sống hiện đại, giỏi về chuyên môn, là cháu trai của bà Kim Thư cũng là bác sĩ, một góa phụ người miền Bắc có chồng bác sĩ Quân y Giang Tử Quang Quân giải phóng, chiến đấu ở trường miền Trung hy sinh. Bác sĩ Hiểu Tuệ có mẹ là bà Quyên Ái, lại là con gái của bà chủ quán hoa Tư Hồng, vợ của Vĩnh Lộc lính quân lực Sài Gòn chết trận, khi giao tranh với lực lượng Quân giải phóng đơn vị của bác sĩ Giang Tử Quang, chồng bà Kim Thư.

Hãy đặt mình vào hoàn cảnh ấy, liệu ta có đồng cảm với bà Kim Thư? Ông cưới bà chưa được bao lâu phải rời xa nhau ra trận, rồi ông hy sinh lúc cả hai còn rất trẻ. Tiếp theo cô em gái chồng Uyển Vy, cũng vào Nam và hy sinh bỏ lại bao nhiêu ước mơ hoài bão. Nỗi đau quá lớn, nên càng về già bà càng dồn hết tình yêu thương vào đứa cháu nội An Đông. Bà hy vọng vào An Đông theo một suy nghĩ khác, hãnh diện về nó tiếp bước theo truyền thống cách mạng gia đình mình, chứ không phải như hiện tại lấy cháu gái của kẻ thù bắn chết chồng và em gái chồng bà. Đấy là bi kịch.  

Hoa cho tình yêu của Hoàng Phương Nhâm, viết bằng thủ pháp đồng hiện giữa siêu thực và hiện thực, trong đó đồng hiện vẫn là chủ yếu. Đồng hiện giữa người sống và người chết, thường xuất hiện bất ngờ trong những giấc mơ, hay khi nỗi đau thể xác mà họ tìm đến. Thủ pháp này có tác dụng chuyển đổi cảm xúc và lấy được niềm tin của người đọc. Tôi đã đọc bằng cảm xúc như thế, càng đọc càng cuốn hút tới những chương cuối cùng bởi tính đa tầng, nhiều lớp, nó xóa nhòa danh giới giữa hiện thực và siêu thực đôi khi có phần huyền ảo. Ma quái thường gây cho người ta sợ hãi, nhưng trong Hoa cho tình yêu yếu tố “ma” không tồn tại, dù đây là tác phẩm có ma.

Hoa cho tình yêu kết thúc có hậu, An Đông và Hiểu Tuệ đến được bên nhau chỉ khi bà Kim Thư vượt qua danh giới giữa cõi âm và cõi dương bằng thủ pháp đồng hiện siêu thực, gặp được chồng Giang Tử Quang, em gái chồng Uyển Vy. Họ đang sống chung với những người từng là kẻ thù, trong những ngôi Làng Chiến Binh, Ấp Giáng Hương… Ở đó cũng có những dòng sông hiền hòa mang nặng phù sa, hai bên bờ ruộng vườn tươi tốt. Ở đó có muôn vàn loài hoa đẹp, vọng vang tiếng chim hót giữa không gian an bình, bầu trời trong xanh và mênh mang mây trắng. Chính miền hoang diệu này, bà nhận ra con người sống với nhau thật là chan hòa tình yêu thương và hạnh phúc.

Cuối cùng tôi muốn nói, Hoa cho tình yêu không hẳn là bản thánh ca về nỗi đau đất nước. Bi kịch thù hận là bản chất của con người, muốn hóa giải nó tôi nghiêng về minh triết của Đức Phật nhiều hơn, yêu người như chính yêu mình. Làm được như thế, hy vọng sẽ gột rửa được tính thù hận trong mỗi con người chúng ta. Bởi chết đi chưa hẳn là kết thúc.

TP. HCM, tháng 9/2025

Bài viết liên quan

Xem thêm
Biểu tượng nước trong thơ Vũ Mai Phong
“Nước” trong văn hóa phương Đông là thủy – khởi nguyên của sự sống, mang phẩm chất mềm mại – bền bỉ – linh hoạt biến hóa của triết lý nhu thắng cương. Trong thi ca Việt Nam, “nước” gắn với dòng chảy thời gian tâm thức dân tộc, văn hóa lịch sử và tâm linh
Xem thêm
“Hư Thực” của Phùng Văn Khai: Tiếng nói Hậu Hiện Đại và Dấu Ấn Văn Chương Đương Đại Việt Nam
Văn học luôn là tấm gương phản chiếu xã hội, là nơi ghi lại những biến chuyển của thời đại và tâm hồn con người. Trong lịch sử văn học Việt Nam, mỗi thời kỳ đều có những tác phẩm tiêu biểu, vừa mang dấu ấn thời đại, vừa để lại những giá trị trường tồn cho đời sau. Tuy nhiên, khi thế giới bước vào kỷ nguyên toàn cầu hóa và đa dạng văn hóa, các giá trị truyền thống gặp nhiều thử thách. Đặc biệt, với sự bùng nổ thông tin và biến động xã hội, con người ngày nay không còn sống trong một thế giới đơn giản, rạch ròi mà là một thế giới đa chiều, hỗn loạn và khó đoán định.
Xem thêm
Thế giới kỳ vĩ của thơ
Thế giới của thơ, với thi sỹ là bến đậu của tâm hồn, là cánh đồng gieo trồng cảm xúc và chữ nghĩa, là bầu trời để cất cánh ước mơ và thả hồn phiêu lãng; với đọc giả là nhịp cầu kết nối con tim, là dòng sông soi rọi, tắm táp tâm hồn để được nâng đỡ và bay cao.
Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm