TIN TỨC

Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-09-24 22:01:58
mail facebook google pos stwis
217 lượt xem

NGUYỄN PHƯƠNG HÀ

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.

 

Tập thơ "Vọng núi" của nhà thơ Trần Nguyệt Ánh

 

Về nội dung cảm hứng, Vọng núi có sự mở rộng đề tài, phạm vi đời sống trong quá trình sáng tác của nhà thơ. Những tập trước, thơ Nguyệt Ánh chủ yếu là thơ tình yêu, trở đi trở lại là những cung bậc cảm xúc yêu đương, những nhớ thương, hờn giận, cô đơn, hạnh phúc và sầu muộn. Đến tập Vọng núi, chị đã biểu hiện cảm xúc, suy tư về nhiều vấn đề, phương diện đời sống hiện thực và tâm hồn con người: Từ tình cảm yêu đương, tình cảm gia đình, tình yêu quê hương đất nước đến những khám phá về thiên nhiên và văn hoá bản địa Tây Nguyên, những trăn trở phận người, suy tư về thơ ca, chuyện đền ơn đáp nghĩa đối với thương binh, liệt sĩ, chuyện tình người thời Covid, v.v…Trong đó có ba nội dung cảm hứng chủ yếu là: Tình yêu đôi lứa, văn hoá Tây Nguyên, quê hương và người mẹ. Hẳn nhiên, việc phân chia chỉ là tương đối, tạm thời để nhận diện; về bản chất, nhiều trạng thái cảm xúc đã hoà quyện vào nhau trong các bài thơ. Tập thơ đã thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, thiết tha yêu thương, ân tình, những tình cảm đẹp đối với quê hương đất nước, niềm tin yêu cuộc sống, trân quý những giá trị tinh thần của con người. Đó là ý nghĩa nhân văn tốt đẹp đáng ghi nhận của tác phẩm.

Thơ là niềm giao cảm của con người và tình yêu là niềm giao cảm mãnh liệt, nồng nàn, say đắm nhất. Nguyệt Ánh viết nhiều bài thơ tình, nhưng ở tập thơ này, chị ít khi biểu hiện trực tiếp cung bậc cảm xúc tình yêu mà biểu hiện bằng những ẩn dụ. Chị có những bài thơ hay về tình yêu, gợi những suy tư về sự lựa chọn trong cuộc đời, về hạnh phúc và khổ đau: “Giữa bóng tối và ánh sáng/ Em chọn lối nào cho chúng ta/ Để trái tim không bị tù đày/ Ánh sáng kia làm mắt chói loà/ Không thấy đường đi làm em vấp ngã/ Trong bóng tối, anh dẫn đường, tâm hồn được hồi sinh”. Sống giữa không gian văn hoá Tây Nguyên, tình yêu của thi nhân hoà vào hình ảnh sông suối cuộn chảy, mãnh liệt và nồng cháy như ngọn lửa đại ngàn: “Vũ điệu xoang nóng bừng lên ngọn lửa/ Chạm ánh mắt anh cháy cả đại ngàn/ Tình em mãi là con sông dòng suối/ Chảy về nguồn giữa làng bản mênh mông” (Gió nay lạnh làm run chiều phố núi). Tình yêu là cảm xúc say mê đắm đuối, khát khao hạnh phúc lứa đôi: “Hoàng tử anh nhặt chiếc giày em vội vã đánh rơi/ Ta thành đôi uyên ương bay trong bầu trời hạnh phúc/ Căn nhà chật dội cơn mưa rào đẫm ướt giấc mơ em” (Lọ Lem say giấc mơ miền cổ tích), “Ngày hôn phối của mặt đất và bầu trời/ Anh quyết dụ trái tim em ngược lối/ Giữa biển mơ tràn nụ sóng hôn bờ/ Anh tan vào khoảng khắc đêm mơ/ Em chấp chới sóng ngầm nghe biển hát” (Hôm nay ngày biển động). Tâm hồn thi nhân rạo rực yêu thương và ngập tràn hạnh phúc giữa không gian hoa lá phồn sinh: “Và anh đến như mùa xuân phồn thực/ Tháng Giêng em mơn mởn dậy thì/ Bông cúc tím giấu mình sau vạt cỏ”. Tình yêu không chỉ là hưởng thụ mà còn đầy trăn trở, là trải nghiệm nỗi đau, cô đơn, chờ đợi, thất vọng, tình yêu thanh cao, đẹp đẽ mà cũng đầy luỵ tục: “Mũi tên thấm giọt đau thương tim mình chết yểu/ Anh mải mê hái những vì sao cuối tận chân trời/ Hòn vọng phu em ngàn năm bạc đầu Tô Thị” (Em độc hành hun hút phía không anh). Đôi khi là nỗi buồn của một lần lỗi hẹn: “Mắt phố chiều nay vắng anh buồn hoang hoải/ Công viên hai ghế đá nhìn nhau/ Trống vắng một chỗ ngồi” và những ẩn ức, bất lực khi phát hiện khoảng cách giữa ước vọng và hiện thực cuộc đời: “Ngàn năm anh kiến tạo mặt hồ/ Tình em hoà vào biển lớn/ Hồ anh gợi nhẹ lăn tăn/ Biển em mênh mông bất tận/ Làm sao chứa sóng mặt hồ” (Em đi tìm lời ru trên sóng)…

Cao nguyên hùng vĩ, kỳ bí và hoang sơ với nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá dân gian đa dạng, độc đáo, là không gian Văn hoá Cồng chiêng, không gian Sử thi và những nghi lễ đầy huyền tích văn hoá gắn với đời sống cộng đồng các dân tộc. Trần Nguyệt Ánh thể hiện ý đồ nghệ thuật: “muốn khám phá bản sắc văn hoá, phong tục của người Tây Nguyên” và cố gắng biểu hiện những nét đặc sắc của đời sống và văn hoá Tây Nguyên. Trong mảng thơ này, Nguyệt Ánh đã thể hiện những tri nhận, suy tư và xúc cảm chân thành về thiên nhiên sông núi, về những giá trị văn hoá truyền thống của đồng bào các dân tộc bản địa: “Chiều bên dòng Krông Ana/ Con dựa vào sông Mẹ/ Lắng nghe nước chảy dọc tim mình/ Dòng tình yêu từ lòng Cư Yang Sin bất tận/ Cùng hoà nhập sông Cha/ Krông Ana hiền hoà dáng mẹ!”. Đã đến Tây Nguyên, không thể quên tiếng chiêng huyền bí, ngân nga, là âm thanh của sông núi, của hồn người, nối liền nhân thế với thần linh: “Bản hoà tấu cồng chiêng vút lên/ Âm thanh cuộn trào từ dòng Sê - rê - pôk/ Bật ra từ những cánh rừng già/ Bung lên từ lòng đất ba – zan/ Tiếng của núi sông hoà vào hồn dân tộc/ Bên nhà rông, lễ thổi tai cho một sinh linh chào đời”. Thiên nhiên, sông núi, các chất liệu văn hoá luôn gắn với những tâm tư, tình cảm, thân phận của người dân nơi đây, nhất là người phụ nữ Tây Nguyên: “Người đàn bà bên nhà sàn cô đơn/ Mượn trăng núi rừng soi bóng mình cho tỏ/ Mượn choé rượu cần để quá khứ tiêu tan/ Nhịp chiêng xoá nhoà âm thanh ngày cũ đục buồn/ Thắp lửa lòng sưởi ấm cả mùa đông/ Mảnh trăng cô đơn năm tháng ấm nồng vĩnh cửu!”.

Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, đầu thế kỷ XXI, rừng Tây Nguyên bị tàn phá nặng nề, bị khai thác đến mức tận diệt. Nhà thơ đã thể hiện niềm xót thương trăn trở vì môi trường thiên nhiên bị tàn phá, thú rừng chim muông mất dần địa bàn cư trú: “Tiếng hươu con thảm thiết bìa rừng/ Ngọn lủa cháy không tìm đâu lối thoát/ Lũ voi rừng gọi bầy rủ nhau chạy trốn”. Những cánh rừng xưa kia làm nên đại ngàn xanh thắm nay chỉ còn là đồi khô núi trọc, những sản phẩm và giá trị văn hoá truyền thống cũng bị mai một dần: “Hỏi rừng về đâu? Thác lũ về đâu?/ Để linh hồn tượng gỗ cũng đớn đau/ Ngàn linh hồn ai oán gửi lời khẩn cầu nhân thế!” (Những linh hồn cô độc lang thang trên bầu trời). Nhà thơ không lên tiếng tố cáo hay kêu gọi mà gợi những lời tự vấn thổn thức, hay thể hiện niềm trắc ẩn, gợi giúp con người ý thức điều chỉnh thái độ, hành vi đối với thiên nhiên: “Voi thuần hoá dịu dàng thánh thiện/ Cong tấm lưng trần cõng cả một trời thu/ Ta là khách lãng du miền đất đỏ/ Khát khao cưỡi voi du ngoạn đại ngàn/ Chợt trong mắt em giọt châu rơi sót lại/ Cho ta nhắc mình dừng bước trước lưng em!”…

Đối với người tha hương, quê hương luôn là chốn yêu thương đi về trong tâm tưởng. Trần Nguyệt Ánh lớn lên ở Tây Nguyên nhưng quê hương Thái Bình với hình ảnh đặc trưng của đồng bằng châu thổ luôn thao thức, vương vấn: “Cánh đồng thảo thơm phảng phất mùi ngọc của trời cuối vụ/ Hương vị tuổi thơ thấm đượm quê nghèo lam lũ” (Đi xa vương vấn làng quê ngấm tận lòng mình). Nhà thơ khát khao được về thăm những danh thắng gắn với lịch sử văn hoá quê hương: “Ước cùng anh một lần về dự lễ hội chùa Keo/ Thăm đền Trần thấm nhuần công lao tổ tiên giữ nước”. Yêu quê hương, tự hào về truyền thống lịch sử, văn hoá của quê hương, nhà thơ hân hoan giới thiệu: “Em tự hào phụ nữ quê mình Năm Tấn/ Lúa thảo thơm một thời nuôi quân đánh đuổi giặc thù/ Anh hẹn đưa em về thăm Đồng Cói, Đồng Châu/ Thăm lễ hội chùa Keo, xem du thuyền, hát chèo, hát hội…”.Trong tập thơ, quê hương gắn với hình ảnh người mẹ vất vả, tảo tần và tận hiến. Hình ảnh người mẹ hiện lên thật đẹp đẽ: “Mẹ đội cả bầu trời nâng cánh ước mơ con”, “Ánh mắt mẹ sáng bừng trang cổ tích/ Soi cho con thoát kiếp nhọc nhằn/ Bàn tay mẹ chai sần vất vả/ Dắt con qua vùng lam lũ mưu sinh”. Nhà thơ biểu hiện tình cảm biết ơn, yêu thương gần gũi của một người con gái đối với mẹ: “Thời gian vụt trôi mẹ quên đếm tuổi/ Mấy lần trốn trong tóc mẹ chơi trò đuổi bắt/ Mùa trôi ngang qua mắt mẹ những lần thất bát/ Võng mạc lằn sợi vất vả thâm trầm/ Con trưởng thành trên phên liếp bao dung” (Mùa thức cùng mẹ bỏ quên tháng năm). Nhà thơ thấu cảm nỗi vất vả, nhọc nhằn và hy sinh của mẹ bằng sự trải nghiệm của bản thân mình, cũng vất vả, đớn đau vượt qua những thử thách của cuộc đời: “Bốn mươi năm con nếm trải cuộc đời/ Thấu hiểu những buồn vui của người từng trải/ Cũng mang thai hình hài máu mủ/ Để con thấu nỗi nhọc nhằn vất vả hy sinh”…

Về thi pháp nghệ thuật, Vọng núi là kết quả sự thể nghiệm của Nguyệt Ánh với thể thơ 1 - 2 - 3, một thể thơ mới xuất hiện những năm gần đây, có đặc điểm là ngắn gọn, cô đọng, mỗi bài chỉ có sáu câu và câu thơ đầu cũng là tiêu đề của bài thơ (gần giống thơ Hai kư của Nhật Bản nhưng số câu nhiều hơn). Đây là một thử thách đối với người viết vì không dễ gì gói gọn tứ thơ, cảm xúc, ý tưởng, hình tượng trong một dung lượng nhỏ như vậy. Nguyệt Ánh đã có sự táo bạo, nỗ lực và những thành công bước đầu được ghi nhận bằng Giải thưởng cuộc thi thơ 1 - 2 - 3 của Ban tổ chức cuộc thi trên trang Văn học Sài Gòn. Chị đã có những bài thơ hay như: Bản hoà tấu cồng chiêng vút lên (tr 19), Mùa thức cùng mẹ bỏ quên tháng năm (tr 21), Giữa bóng tối và ánh sáng (67), Voi thuần hoá dịu dàng thánh thiện (tr 71), Mẹ quên tuổi mình trên vòm lá quê hương (tr 128), vv…

Một đặc điểm rõ nét là Nguyệt Ánh dùng với mật độ khá dày phép chuyển nghĩa, lạ hoá  để tạo nên nét mới mẻ, đa nghĩa cho hình tượng thơ. Chị đã dụng công khi sáng tạo những ngôn từ và hình ảnh mới mẻ, táo bạo để tăng sức biểu hiện cho thơ: “Người đàn bà gánh sóng lên phơi”,“Thu vặn mình bật nhánh tình non”, “Mặc cho tình anh mãi vồng lên bất diệt”, “Để xuân trong em chực trào núi lửa”, “Tháng giêng em mơn mởn dậy thì”, “Con cúi nhặt bàn chân cha trong mùa đông cũ/ Ghép kỷ niệm xưa trên phiên nứa nhọc nhằn”, mầm yêu”, “nhánh mây”, “hạt mùa đông”, “nụ sóng”, “ đêm vỡ lòng”, “sợi nắng”, “ngực đất”, vv… Tuy nhiên có những trường hợp liên tưởng quá xa, tạo ra sự tối nghĩa, khó cảm nhận: “Đêm nỗi lòng tự khúc nỗi riêng em”, “Ý nghĩ chúng mình hôm nay dị bản”, “Đích cuối cùng đến mộ địa tình anh”, vv…Thơ 1 - 2 - 3 đòi hỏi sự cô đọng và có sức khái quát cao. Có lẽ vì vậy, nhà thơ đã dùng quá nhiều hình ảnh ước lệ quen thuộc, nhiều ẩn dụ  để xây dựng hình tượng thơ. Điều này làm chất thơ nghiêng về suy tưởng mà nhạt về cảm xúc, hạn chế tính chất cụ thể, sinh động, tươi mới và biến ảo của thi ảnh và thi cảm trong nhiều bài thơ, ví như: “Biển chiều nay định vị trái tim em/ Bước chân khách cô liêu chợt như quen như lạ/ Vô định lòng mình lạc bến nẻo xa/ Biển gọi tên em rộn khúc hoan ca/ Xếp lại nỗi nhớ nơi ngăn tim ngập chìm hoài niệm”. Đây đó vẫn thấy một số bài cảm xúc thơ chưa thật chín, chưa nhập sâu vào bản chất để biểu hiện được cái hồn của chất liệu văn hoá Tây Nguyên. Hẳn nhiên, đây là một việc khó, đòi hỏi những nỗ lực tích luỹ vốn văn hoá lâu dài, bền bỉ và sáng tạo.

Nhìn chung, Vọng núi là tác phẩm thành công của Trần Nguyệt Ánh, thể hiện tình yêu mãnh liệt đối với thơ và khát vọng vươn lên, khẳng định bản sắc riêng của nhà thơ trong sáng tạo nghệ thuật. Tác phẩm có nội dung phong phú, mang trị nhân văn tốt đẹp và nhiều nét mới mẻ, hấp dẫn về nghệ thuật thể hiện. Đây là một đóng góp ý nghĩa của chị đối với thơ ca Đăk Lăk nói riêng, thơ ca nước nhà nói chung. Rất mong Trần Nguyệt Ánh tiếp tục phát huy những thành quả đã đạt được và nỗ lực hơn nữa để sáng tạo những tác phẩm nghệ thuật đặc sắc hơn trong tương lai./.

N.P.H

Bài viết liên quan

Xem thêm
Văn học dịch và những tác động đến đời sống văn học Việt Nam những năm đầu thế kỉ XXI
Nói đến văn học dịch những thập niên đầu thế kỉ 21, có lẽ, trước hết, phải nhắc tới việc rất nhiều tác phẩm thuộc hàng “tinh hoa”, “kinh điển”, hay các tác phẩm đạt được các giải thưởng văn chương danh giá (Nobel, Pulitzer, Man Booker...) đã được chú trọng chuyển ngữ trong giai đoạn này.
Xem thêm
Vài nhận thức về trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều
Tôi hỏi nhiều nhà thơ và văn, rằng họ thấy trường ca “Lò mổ” của Nguyễn Quang Thiều như thế nào và đặng họ có thể khai sáng chút gì cho tôi nhưng không ai có câu trả lời khiến tôi thỏa mãn, đa phần đều nói “Ái chà, Lò mổ của Nguyễn Quang Thiều hả, bọn tớ cũng chỉ nghe dư luận ồn ào trên mạng thôi chứ có sách đọc đâu!”.
Xem thêm
Nguyễn Duy – Vịn thi ca vượt thác thời gian...
Bài đăng Văn nghệ Công an số ra ngày 13/11/2025
Xem thêm
Thơ có nghĩa là “thương” - Tiếng thơ Đặng Nguyệt Anh
Một bài viết thấm đẫm nhân tình của Tuấn Trần – người trẻ viết về Đặng Nguyệt Anh, “ngoại” của thơ và của lòng nhân hậu. Từ câu chữ đến cảm xúc, bài viết là một lời tri ân chân thành dành cho thế hệ cầm bút đã “đem trái tim yêu thương gánh ghì số phận chung”, để hôm nay, thơ của họ vẫn còn làm dịu đi những cơn bão đời người.
Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Nguyễn Khuyến “thâm nho” giữa đời thường
Nguyễn Khuyến (Nguyễn Thắng, 1835-1909) hiệu Quế Sơn, tự Miễn Chi. Người đời gọi ông là Tam Nguyên Yên Đổ, do lấy địa danh là xã (làng) Yên Đổ (huyện Bình Lục, Hà Nam trước đây) ghép với việc ông thi đỗ đầu (giải nguyên) cả ba kỳ thi hương, hội và đình. Nhưng việc này thì chính Nguyễn Khuyến cũng chẳng tự hào cho lắm, ông viết: “Học chẳng có rằng hay chi cả/ Cưỡi đầu người kể đã ba phen”.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm