TIN TỨC

Nguyễn Kim Thanh với hương đồng gió nội miền Tây

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-09-21 21:03:25
mail facebook google pos stwis
1162 lượt xem

LÊ XUÂN

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Trong mỗi chúng ta ai chẳng có một quê hương để thương để nhớ. Với nhà văn Nguyễn Kim Thanh thì đó là cả một vùng ký ức với bao kỷ niệm vui buồn nhung nhớ. Đó là cảnh sắc quê nhà với hai mùa mưa nắng, là tiếng bà ru cháu, mẹ ru con, là lời ca điệu lý vang vọng bên những dòng kinh. Đó là bến nước, dòng sông, là những giề lục bình trôi với bông tim tím, hay bông điển điển vàng, bông súng mùa nước nổi, là con cá lòng tong, con cá linh, cá rô, con tôm càng quẫy đạp. Đó là những phận người lưu lạc, bất hạnh trong chiến tranh hay trong cuộc mưu sinh nhưng không bao giờ lùi bước bi kịch cuộc đời. Họ vẫn luôn lạc quan yêu đời, vựợt lên mọi gian nan thử thách khi cuộc sống trở nên “không thể chịu được nữa”. Tập truyện ngắn và tản văn “Mùa cá lòng tong” của chị là bức tranh sống động của miệt quê Nam Bộ mang vẻ đẹp hương đồng gió nội như một hành trang theo mỗi bước chân chị đã qua.

Nhà văn Nguyễn Kim Thanh

 

Nhà văn Nguyễn Kim Thanh với các bút danh: Duy Anh, Kim Thanh, Huỳnh Duy, Hưng Phú đã trình làng nhiều tác phẩm in chung và bốn tác phẩm in riêng. Nhiều sáng tác của chị đã được đăng trên các Báo, Tạp chí Văn nghệ Trung ương và địa phương. Hiện nay chị là Phó Chủ tịch Hội Nhà văn thành phố Cần Thơ, phụ trách Tạp chí Văn nghệ Cần Thơ. Công việc nhiều và hoàn cảnh còn khó khăn nhưng đêm đêm chị vẫn miệt mài trên mỗi trang viết. Tình yêu văn chương đã nhen nhóm trong lòng chị từ những ngày còn ngồi trên ghế nhà trường Trung học phổ thông Châu Văn Liêm. Đôi khi những bài thơ, những trang viết chỉ “một mình mình biết, một mình mình hay”. Nhưng từ khi là hội viên Phân hội Văn học thuộc Hội văn học nghệ thuật tỉnh Kiên Giang rồi chuyển về Cần Thơ và qua các lớp bồi dưỡng ở các trại sáng tác, lý luận văn học, rồi đi thực tế nhiều chuyến thì những truyện ngắn, tản văn của chị càng “nổi gió” hơn, ghim được vào trái tim người đọc.

Đề tài những truyện ngắn, tản văn của Nguyễn Kim Thanh phần lớn đều xoay quanh số phận người miền Tây trong cuộc sống đời thường. Nhân vật thường là những người phụ nữ chịu nhiều bất hạnh ở miền quê hay phố thị khác nhau. Con người, cảnh vật trong truyện hiện lên rất sống động qua cách kể, cách tả, cách dẫn truyện khá hấp dẫn nhiều lớp lang, nhiều tình tiết.

Với tập truyện ngắn và tản văn này, chị đem đến cho người đọc cái nhìn đa chiều về con người và cuộc sống của cư dân miền Tây Nam bộ bằng một giọng văn kể chuyện tâm tình với nhiều chi tiết sống động. Mỗi truyện ngắn, mỗi tản văn là một lát cắt, là một clip quay cận cảnh về đời sống, cảnh sắc vùng đất đầy nắng gió khi con nước lớn, ròng. Người đọc sẽ bắt gặp đâu đó hình bóng quê nhà với những con người dễ thương dễ mến như: ông Mười Sẹo, chú Hân, chú Thi, cô Út, cô Nguyệt, cô Sinh, cô Ngần, bà Hai Qườn trong “Chuyện nhà ông Mười Sẹo” mà ông Mười Sẹo là người đáng thương hơn đáng trách. Người đọc khó quên tiếng chửi của Mười Sẹo, nó khác với tiếng chửi cả làng Vũ Đại của Chí Phèo, “Ổng chửi bầy trâu là chủ yếu nhưng lũ trâu có nghe lời ông chửi tụi nó hay không mà cứ ốm o dần đi”… Hay “Chuyện ở xóm Miễu” ta bắt gặp một lão Tam với biết bao người đàn bà qua tay lão mà “mụ Hinh vẫn khoái lão Tam ra mặt”. Lão từng hại ba má lão, hại các đồng chí của ba má. Lão chính là thằng Ức “đã chết trong lòng dân xóm Miễu”. Lão chỉ uống rượu và bạn với con chó thôi, và lão đã tự biết mình có tội với dân. Nhưng tình thương con vẫn bùng cháy trong huyết quản của lão. Ở đây ta còn bắt gặp một ông Ba Giỏi gốc miền Trung chạy vào Rạch Sỏi (Kiên Giang) sinh sống, có cảm tình với cách mạng, được bà con yêu mến nhưng có thằng con nghịch tử bán đứng cả ba má và đồng đội, và ông đã “hộc máu lên vì uất ức, ông không dám nhìn vào mắt các đồng chí của mình”. Các nhân vật xóm Miễu hiện lên qua lời kể của chị rất có duyên, đan xen giữa các nhân vật làm người đọc như “vừa quen vừa lạ” như sờ thấy được. Nào Bà Bảy, thằng Xứng, Sa Sang, nào bác Tấn, chị Mười, lão Tam và bà con xóm Miễu luôn chan hòa tình làng nghĩa xóm…  Những trang viết như thế cứ ám ảnh người đọc, nhẹ nhàng mà sâu lắng đậm chất đời và tính nhân văn.

Ở các truyện “Hương cỏ mật”, “Lá bùa hộ mệnh”, “Lục bình trôi”, “Lưng chừng triền dốc”, “Luôn có một vì sao theo dõi anh” … Nguyễn Kim Thanh vẫn giữ giọng kể chuyện tâm tình để khắc họa tính cách nhân vật, tạo điểm nhấn cho mỗi truyện. Và tác giả kết thúc truyện theo hướng “mở” để  “người đọc cùng sáng tạo”. Không gian và thời gian truyện luôn mở rộng biên độ. Từ chiến tranh chống Mỹ đến hòa bình lập lại, từ miền Tây tỏa đi Sài Gòn, Tây Nguyên, miền Trung, miền Bắc… nhưng nhân vật và ngôn ngữ truyện rất đậm chất Nam Bộ. Từ thành phố Cần Thơ, được xem là Tây đô của khu vực Đồng bằng sông Cửu Long, bàn chân chị đã qua hầu hết các nẻo đường. Tới đâu chị cũng ghi lại những cảnh, những người, những nét đặc trưng của vùng đất đó. Từ bông hoa ngọn cỏ, trái cây, bông súng, lục bình, bông điên điển tới cánh cò, con đò, dòng sông, cầu tre lắt lẻo, cầu khỉ gập ghình khó đi hay bến nước, ao hồ, câu ca điệu lý… đều ùa vào mỗi trang văn. Mỗi truyện của chị đều ánh lên vẻ đẹp nhân văn như hơi thở cuộc sống thường nhật vậy. Tất cả đều thấm đẫm tình người với những nỗi đau, niềm vui của thân phận con người, đôi khi yếu đuối nhưng cũng rất kiên cường, cho dù cuộc sống xô đẩy họ đối mặt với những nghịch cảnh của gia đình, xã hội nhưng ở họ không hề tắt niềm tin và hy vọng. Những góc khuất tận cùng của con tim nhân vật được chị diễn đạt như những lời tâm tình thỏ thẻ, khiến người đọc dâng lên một niềm cảm thương sâu sắc. Tôi có cảm giác Nguyễn Kim Thanh như hóa thân vào nhân vật, vào dòng chảy của ký ức với bao kỷ niệm vui buồn mà con tim thôi thúc. Quá khứ, hiện tại và tương lai cứ thôi thúc chị phải viết ra như trả món nợ cho đời.

Tập truyện ngắn, tản văn “Mùa cá lòng tong” của nhà văn Nguyễn Kim Thanh

 

Ở những tản văn, chị lại đưa người đọc trở về tuổi thơ với quê hương thân thương trìu mến qua những trang miêu tả đậm chất thơ. Đó là cảnh “Má trồng rau ngày Tết” và “Tiếng rao bánh tráng ngày xuân”. Và đây là cả một “Vùng ký ức” với bao âm thanh, sắc màu của “Ninh Kiều ngày mới”, “Nỗi nhớ mùa trăng”, “Nỗi nhớ dòng sông”, “Mùa cá lòng tong”. Và những lời thầy dạy vẫn văng vẳng bên tai. Tất cả là một tình yêu quê hương nồng thắm. Những trang viết về mẹ, gia đình, bè bạn, tình thầy trò, tình yêu cứ ùa vào ký ức làm sáng lên niềm tin và lòng thủy chung bền chặt. Trong mỗi chúng ta ai mà chẳng có một quê hương để thương để nhớ, và nếu ai đó “Quê hương nếu ai không nhớ/Sẽ không lớn nỗi thành người” (Đỗ Trung Quân). Nhà thơ người Nga Ilia Erenbua đã viết: “Dòng suối đổ vào sông, sông đổ vào đại trường giang Vonga. Con sông Voga đi ra biển. Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê trở nên lòng yêu Tổ quốc”. Nhưng không phải ai cũng có được tình yêu quê nồng nàn, tha thiết như thế. Tình yêu quê hương làng xóm, yêu con người miền Tây dân dã, mộc mạc trọng nghĩa khinh tài, nhân ái cứ lớn dần trong chị. Đó chẳng phải là lòng yêu dân tộc và Tổ quốc sao? Ta hãy thưởng thức món cá lòng tong kho tiêu, cá lòng trong ăn lẩu có bông súng lục bình, khô cá lòng tong chiên giòn của má trong những ngày mưa dầm nắng lửa càng cảm thấy vị mặn mòi đậm tình quê hương. Chị tả cảnh má Mải bỏ lưới xuống xuồng bắt cá lòng tong khá điệu nghệ: “Năm nào cũng vậy, từ tháng mười một âm lịch cho tới tháng tư năm sau mùa cá lòng tong về. Cá lăn tăn khắp sông rạch… Những ngày vào mùa cá khi bắt đầu con nước lớn, má Mải bỏ lưới xuống xuồng, Bà bơi xuồng tới đầu dòng sông hay đầu các con kênh và bắt đầu thả lưới… Bà sử dụng hai đoạn tre nhỏ cắm xuống nước nép bên đầu kênh hoặc đầu vàm và bắt đầu giăng lưới”. Và đây là tiếng rao bán các loại bánh gần Tết ở vùng quê vui làm sao: “Bánh tráng nhúng, bánh tráng mè đen, bánh tráng ngọt nước cốt dừa, bánh tráng khoai mì… có luôn bánh phồng nếp ngọt, lạt đây bà con cô bác ơi”. Rồi hình ảnh chợ nổi miền Tây - nét đặc trưng vùng sông nước Nam Bộ không thể thiếu trong tản văn của chị. Chỉ cần nhìn cây “bẹo” du khách đã biết gì? Treo gì bán nấy chăng? Và chị đã cho biết: “Làm ăn khấm khá treo tàu lá dừa nước, bán ghe nhỏ, mua ghe lớn hơn. Làm ăn không được hoặc gia cảnh không đi ghe được nữa thì cũng phải treo tàu lá dừa nước… có cái treo mà không bán đó là quần áo, đồ sinh hoạt của người thương hồ…”

Mỗi mùa trăng, mỗi khi con nước lớn ròng, ghe xuồng tấp nập trên sông, nhất là những ngày giáp tết. Tình yêu cũng nảy nở trên sông, trên ghe xuồng những đêm trăng sáng. Tiếng đờn hòa tấu, lời vọng cổ xuống “xề” cùng với tiếng cụng ly cười nói cứ văng vẳng trên sông từ khuya tới sáng… Miền Tây miệt vườn Nam Bộ là thế đó. Nó hiện lên trên mỗi trang văn của chị thật đáng yêu biết dường nào.

Chỉ với mười sáu truyện và tản văn, Nguyễn Kim Thanh đã cho người đọc thưởng thức bao vẻ đẹp về con người và cuộc sống nơi thôn dã bình lặng hay phố thị đông vui của miền Tây Nam Bộ. Đó là một bức tranh vừa mang tính tổng thể vừa đặc tả những nét đặc trưng nhất của vùng đất này với bao hương đồng gió nội đáng yêu.

Ngày nay giữa những ồn ào của của lối sống công nghiệp thời hội nhập, đọc những truyện ngắn và tản văn của chị ta như đang lắng nghe lời tâm sự của những con người, những mảnh đời khát khao, hy vọng vươn tới một hạnh phúc trọn vẹn. Xã hội ngày càng phát triển, nhưng cuộc sống cũng còn nhiều khó khăn, trăn trở, thì vẫn còn đó những mâu thuẫn, những đối lập nảy sinh. Nhưng ta tin rằng cái cao cả, thiện lương mà tác phẩm đem lại luôn là bài ca chiến thắng cái xấu, cái ác.

Bằng một giọng kể hồn nhiên, đôn hậu, từ ngữ mộc mạc, những phương ngữ Nam Bộ dùng đúng lúc đúng chỗ, chị đã chinh phục được trái tim người đọc bằng những câu chuyện đẹp, những tản văn hay đậm chất tình, chất thơ. Hy vọng đường văn của Nguyễn Kim Thanh còn tiến xa hơn nữa. Xin trân trọng giới thiệu “Mùa cá lòng tong” cùng bạn đọc.

L.X

Bài viết liên quan

Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm