- Lý luận - Phê bình
- Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
Nhà văn Mai Văn Tạo – Viết từ tấm lòng sâu nặng để tri ân nguồn cội
TRẦN QUANG KHANH
(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) -Vùng đất miền Tây Nam Bộ đã luôn ghi khắc văn nghiệp của các nhà văn kỳ cựu, đưa tên tuổi họ trở thành những nguồn sáng rạng rỡ với những trang viết đậm hồn đất và tình người của xứ sở nơi đây. Có thể kể đến nhà văn, nhà nghiên cứu, học giả Nguyễn Chánh Sắt, Nguyễn Hiến Lê, Nguyễn Văn Hầu…; các nhà văn Sơn Nam, Anh Đức, Trang Thế Hy, Nguyễn Quang Sáng, Lê Văn Thảo, Nguyễn Lập Em, Phạm Trung Khâu, Lê Đình Trường, Ngô Khắc Tài…; các nhà thơ Thanh Hải, Phạm Hữu Quang, Đinh Thị Thu Vân, Trịnh Bửu Hoài, Thu Nguyệt, Phạm Nguyên Thạch, Ngọc Phượng, Song Hảo…
Nhà văn Mai Văn Tạo
Và càng khó có thể lãng quên một tên tuổi lớn, với nhiều đóng góp ấn tượng và quan trọng cho vùng đất này - đó là nhà văn Mai Văn Tạo. Ông tên thật là Nguyễn Thanh Tân, sinh 15.3.1924 tại xã Vĩnh Tế, tỉnh Châu Đốc cũ (nay thuộc tỉnh An Giang). Nhà văn đã từ giã cõi đời vào ngày 03.7.2002. Ông là hội viên Hội Nhà văn Việt Nam, để lại di sản thơ văn gần 30 tác phẩm, in từ Nam chí Bắc. Ông có những tác phẩm đã để lại dư âm, đương thời gây được tiếng vang như các truyện ngắn: “Hoa Lê” (1962), “Đường rừng” (1973), “Bông điệp đỏ” (1975)… Các bút kí, truyện kí: “Núi Sam quê mình”, “Lời ru của Mẹ”, “Lại về quê lụa Tân Châu”, “Làng quê ngày ấy”, “Củ Chi đất thép”, “Em bé sông Hương”... Ông đồng thời còn là soạn giả các vở kịch nói và cải lương, tuồng cổ với bút hiệu Chí Linh. Năm 1999, ông đã cho ra mắt tập tản văn Mai Văn Tạo, với độ dày 300 trang. Nhà văn một thời tham gia chiến đấu trong quân đội, sau làm công tác biên tập tại Đài phát thanh Tiếng nói Việt Nam.
Mai Văn Tạo ghi dấu ấn bởi những trang viết mang đậm hơi thở lịch sử thời đại, nặng tình, gắn với các sắc thái của đời sống quê hương và những vùng đất mà ông đã đi qua, gắn bó. Ông viết văn như là một cách hồi tưởng dòng ký ức, kể lại những câu chuyện giản dị mà lấp lánh những giá trị nhân văn bền chặt, sâu sắc. Ông từng trải lòng: “Lịch sử An Giang đã viết bằng những cuộc đời lận đận, những số phận bi thương, những tâm hồn vĩ đại, bằng máu và nước mắt, bằng những lưỡi gươm và cây súng thô sơ. Tới bây giờ tôi được vinh hạnh viết cuộc đời của mẹ - Người mẹ An Giang - bằng cây bút. Hạnh phúc cho người cầm bút biết bao…” (SGK Ngữ văn lớp 7, NXB Giáo Dục 2007). Đọc những dòng viết chân thật gợi thương cảm ấy, nhà báo Lê Phú Khải đã phải bật lời thảng thốt ngợi ca: “Riêng tôi, chưa thấy có người cầm bút nào lại nặng tình quê hương như ông Tạo”. Tấm hình Núi Sam được phóng to, lồng khung kính trang trọng trong nhà ông ở giữa chợ Tân Định (Sài Gòn cũ) là minh chứng rõ nét nhất.
“Tôi muốn thấy lại ánh lửa đồng những đêm Đức Cố quản Trần Văn Thành luyện tập nghĩa quân Láng Cháy - Bãi Thưa. Tôi đã về Hồ Đá, An Định, Thới Sơn… tìm những lùm bụi nào các chí sĩ Cần Vương hội tụ, chỗ nào Cử Tri ngồi vắt óc làm thơ, Nguyễn Thông dạy học, Bùi Hữu Nghĩa trấn đồn… Về Mỹ Luông ngắm cột dây thép ông Đỏ treo cờ năm 1940… Qua Kiến An nhìn tận mắt lò rèn của bác thợ Gộc rèn gươm khởi nghĩa… Trờ lại cầu sắt Vĩnh Thông nhìn lại chiến trường xưa…” (Đất quê hương, 1979)
Niềm ao ước của nhà văn thật đẹp, cao cả biết bao. Một cách sống ân nghĩa đáng cho người đời sau trân quý. Nhà văn như sống giàu tình nặng nghĩa với những trang sử vàng hào hùng của các ông cha thuở trước. Với tấm lòng yêu nước thương dân, yêu làng quê xứ sở, các bậc nghĩa sĩ xưa đã dấn thân vào bao cuộc chiến đầy nỗi can qua, nhọc nhằn, hòa lẫn máu và nước mắt để bảo vệ bờ cõi quê hương, giữ gìn lòng nhân và chính nghĩa. Những danh sĩ, những địa danh bi hùng xưa cũ, ông đã cất công truy tìm đến “gốc rể lẫn ngọn ngành”.
“Tôi tha thiết muốn biết triền đá nào chí sĩ can trường Trương Gia Mô đã từ ngọn tháp rơi xuống tuẫn tiết, không thể sa vào tay giặc Pháp… Tôi hiểu được thêm rằng Phật Thầy chùa Tây An là nhà chí sĩ bản lĩnh mượn chiếc áo nhà tu che mắt kẻ thù…”
Hơn thế nữa, nhà văn còn bộc bạch tâm sự khi đất nước chưa được hòa bình. - “Tôi lững thững đi vào đường phố Châu Đốc, Long Xuyên như một con người nhàm chán mảnh đất đang đi - bóng núi làng xưa phía trước…”. Dòng tùy bút là nỗi suy tư miên man của một mảnh hồn nặng nợ với quê hương xứ sở, bản quán cội nguồn. Có lẽ nơi nhân vật “tôi” sinh ra - đất mẹ đã hóa thân thành một linh hồn cất tiếng nói, đang dõi theo từng rung cảm trái tim nơi ông.
Nhà văn Mai Văn Tạo sinh ra và lớn lên trong ngôi làng vùng biên viễn Vĩnh Tế. Bà con, chòm xóm miền sơn cước xứ Học Lĩnh Sơn - Vĩnh Tế Sơn thân thiết với ông từ tên gọi “ở nhà” rất mộc: “Chín Giỏi”. Cả làng ông Chín ấy đã cuộn chảy lớn lên từ dòng sữa Vĩnh Tế ngọt lịm, ấm nồng. Từ nhịp đập háo hức, rực lứa của trái tim ông mới sản sinh được những lời văn chân mộc, thiết tha, đằm thắm làm về tình quê, tình người của làng mình, của vùng biên giới cực Nam Tổ quốc đầy sâu nặng, thân thương. Điều đó còn lắng sâu trong bài ca vọng cổ nổi tiếng của soạn giả Chí Linh -“Quê Mẹ An Giang”, đã để lại dấu ấn đậm đà hương vị đồng quê, cho những đứa con đã ra đi biệt xứ, những mảnh đời trôi sông, lạc bến nơi chợ lạ xứ xa đêm ngày khắc khoải. Thêm một vùng đất được định danh trong cõi chữ miên man của hoài niệm ký ức. Một vẻ đẹp lấp lánh rất riêng giữa trăm miền quê hương của Tổ quốc…
Các lớp học trò ngày trước, đã học qua chương trình bộ môn Quốc văn lớp 7 đều biết đến tác phẩm Mai Văn Tạo, qua thể tài tản văn và các đoạn trích dẫn từ bút kí của ông. Đó là những trang viết về “An Giang quê tôi”, “Ký ức một miền quê”, “An Giang - tình sâu nghĩa nặng”….Trong ông luôn phảng phất niềm tự hào về “cái đẹp, cái lớn của quê mình”, qua bút pháp tả cảnh gợi sự tâm tình, giàu biểu cảm. Như sự hiện diện của dòng sông Vĩnh Tế, khung cảnh quê hương đối với người dân bản xứ, đã được ông ghi lại: “Tuổi thơ tôi hằn sâu trong ký ức những ngọn núi trông xa lấp lánh như kim cương, lúc xanh mờ, khi xanh thẫm, lúc tím lơ, khi rực rỡ như núi ngọc màu xanh. Những năm tháng xa quê, dông tố cuộc đời tưởng chừng như cuốn bay tất cả, nhưng trong tâm tư tôi những dòng sông quê mênh mông vẫn cuồn cuộn chảy, những dòng kinh biêng biếc vẫn lặng lờ trôi. Tôi yêu những cánh đồng bao la vàng rực ngày mùa. Tôi yêu cả tiếng chuông chùa ngân thăm thẳm canh khuya. Tôi yêu cây gáo mồ côi, cây gáo đôi im lìm xa xăm ngoài đồng bãi…”. Với điệp khúc “Tôi yêu…Tôi yêu …” như một lối văn vừa kể, vừa tỏ bày. Tất cả tạo điểm nhấn tư tưởng, làm điểm tựa cho cảm xúc tuôn trào một niềm yêu quý quê hương xứ sở đầy chất chứa. Văn ông đậm đà sắc thái tự sự trữ tình, nhẹ nhàng mà cứ da diết trĩu nặng tâm hồn. Kỷ niệm vui buồn tuổi ấu thơ, khung cảnh quê nhà tĩnh lặng đơn sơ, mộc mạc, mỹ quan của sắc màu đá núi được đặt trong tâm cảnh, nhà văn đã dẫn dắt bạn đọc đi từ biểu đạt trực tiếp đến truyền tải những tâm tình gián tiếp, giàu sức gợi những cung bậc cảm xúc, tình cảm. Từ kỷ niệm của hồi ức đi đến tâm tình và mong ước những chuyến đi điền dã “tự nguyện” về những nơi vùng đất lịch sử, con người kiên cường, bất khuất chống giặc ngoại xâm:
“An Giang từ bao đời đến bây giờ là đất nóng, là bãi chiến trường. Bờ cõi An Giang đời này sang đời khác luôn bị xâm lăng và đẫm máu… Tôi thèm được leo lên Pháo Đài tìm lại phiến đá nào đã in dấu chân Hoàng Đạo Cật, cùng các đồng đội, đồng chí của anh…” Tôi muốn tìm lại vang bóng con người đến phút cuối đời còn làm cho giặc khiếp sợ mà nhà cách mạng Phan Bội Châu nghe tin đã khóc…”
Từ truyền thống đấu tranh can trường của đồng bào mình - khoảnh khắc sống và trở về giữa vùng đất quê hương chịu nhiều bom đạn, giờ đã ngời rạng nét hòa bình an lạc, tác giả bày tỏ niềm xúc cảm nhớ nhung, tự hào khi quay về quê cũ, cảm thấy quê hương mình đẹp hơn lúc ra đi. Những nỗi niềm cảm, tưởng sâu thẳm trước thời gian, trước đất mẹ…
Đọc Mai Văn Tạo ta cảm nhận được tình cảm yêu thương, gắn bó sâu nặng của nhà văn đối với từng tất đất quê hương… Một giọng văn đằm thắm, gợi cảm sâu sắc. Sức hấp dẫn của văn Mai Văn Tạo đến giọng điệu trữ tình, những quan sát tinh tế, chọn lọc và chân thực. Mỗi lời văn thủ thỉ, thiết tha với cả tâm tình, hồn quê len lỏi qua mỗi nhịp đập con tim, khối óc và nơi con chữ tượng hình. Nơi ấy, đã được ông định danh như “lẽ sống” đời mình. Ông muốn mang theo quê hương trên mỗi bước hành trình. Để vừa đi, vừa sống mà không xa nguồn cội, luôn thủy chung nhất quán với tình đất, tình người quê hương.
Trần Quang Khanh - Hội viên: Liên hiệp các Hội Văn học Nghệ thuật An Giang, Hội Khoa học Lịch sử An Giang