- Lý luận - Phê bình
- Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
"Khúc nhen chiều" của Vũ Xuân Hương hiện lên như một bức bích họa nhiều tầng, nơi “khói” vừa gợi nhớ cội nguồn, vừa hóa thân thành biểu tượng cho những quặn thắt, day dứt và cả niềm tin của phận người. Trong bài viết này, Tuấn Trần phân tích hồn thơ dữ dội mà trữ tình ấy, đồng thời cho thấy sự hòa quyện giữa chất sử thi – dân gian với âm hưởng hiện đại, mở ra một biên độ tồn tại rộng rãi cho thi ca.
TUẤN TRẦN
Thoạt nhìn cứ ngỡ hồn thơ Vũ Xuân Hương mang màu sắc chủ đạo là hồn hậu, mênh mang, hướng về nguồn cội với những quý giữ, nâng niu. Thế nhưng, hóa ra trong làn khói ám mộng ban chiều đó, lại không chỉ “Bình dị màu yêu thương” mà còn bốc bay họa hình theo những biểu đồ, những đường “lập thể”, những mịt mù chao đảo, những cơn quặn thắt trong “dòng tiến hóa” – “Khói” họa “thiên cơ”.
Cái ảo mờ, rong ruổi, cái biến tấu kì biệt, tự do “tung tác” để khám phá, kiếm tìm, truy/ trưng thu cái đẹp đông, tây, kim, cổ sao cho thỏa nguyện cơn lửa đói lòng trong chiều quan tái… Hồn thơ Vũ Xuân Hương được kiến tạo từ mô thức dung trộn nhiều thành tố: Chất cổ điển sử thi/ anh hùng ca, ảnh và lời đậm tư thái dân gian của miền Bazan. Thanh âm trong thơ có tiếng suối trong, có lòng gan dạ T- nú, có thác gầm rú và những tiếng gật gù cu núi, “Bồ Chao”… Các thanh trắc, điệp vần và lối nói khúc thắt, ngắt ngang như thác đổ, dựng đứng vách cao, khi trào tuôn, khi thầm lặng, thấm lắng… Tất cả đều mang mắc sự bi cảm/ tráng, hòa âm bài ca sự sống thiêng liêng. Để làm mới tinh thần trang trọng cổ điển đó, nhà thơ đã đệm đàn những “khúc piano songs of Richard Clayderman” – giặm thêu “nền nả” bao lật trở, ngậm ngùi cho đời sống đương đại nhiều điều nhân họa, thiên tai.
Hoặc, ở một liên tưởng khác, khói nhen lên từ bếp nồng lửa đỏ, từ “bờ đê lối cỏ”, từ “một chiều bến quê” nhưng đồ hình đường bay của nó thì “vượt ngưỡng”: Khi đậu bóng Kơ - nia, đi rừng Tây Bắc, khi Sa Huỳnh, Ban Mê, khi Núi Ngự, sông Hương, tìm người bến lạ… Khi “sực tỉnh” suy niệm “bể khổ bến mê” - đạo trời lời đất.
“Khói” mềm mang tâm thức luân lưu, biến thiên vô định với nhiều sự hóa thân hóa kiếp. Có phải, hồn thơ lựa chọn ảnh tượng “Khói” để biểu đạt dạng thức tồn tại của chính mình giữa thế lộ đảo điên. “Khói” từ sau lũy tre, gốc đa, mái rạ, lang thang địa cửu thiên trường trong tâm tư độc hành, lẻ loi, soi bóng mình vào từng ngõ ngách khám phá, kiếm tìm - vẫn trống trải, trơ vơ đi hoang – loang dài từ hoàng hôn đến ăn bắt vào dòng nước mắt đêm…
Tác giả Tuấn Trần và Thạc sĩ, nhà thơ Vũ Xuân Hương
“Khói” đảo chao với muôn hình vạn dạng, âm vang lên những tiếng không chỉ bình yên, ảm đạm mà như “ngàn hống”, như siêu thiêng, như từ thung sâu cùng non, những miền hoang dại/ hoải dội về trong tâm tưởng: “Anh lững thửng bước về lối cổ/ thưở chưa nhau chưa có Tà Đùng…/ bất chợt nắng/ bất chợt sương/ bất chợt làn hương níu chân người lại/ một làn em thanh sắc hiện ra/ phải bóng cây Kơ - nia sương chiều vạt núi? (cây bằng lăng thân trắng đợi người).
Khác với các “họa sĩ” khác, ví như Thanh Hoàng “Vẽ nhớ” – phong cách pha màu rất đầy hương, nét cọ êm thấm, đậm đà, đôn hậu… Còn Vũ Xuân Hương, cũng từ phẩm tính trung hòa của sắc trắng nắng chiều, mà anh đã phác thảo trạng thái tinh thần mãnh liệt và có thể là “cuồng tín”, “cưỡng bách” mình “sắn tay sới vật linh hồn”...
Anh dùng nhiều gam màu nóng chói, những mảng đen đúa gai góc. Trong màn “khói” “sử thi” quánh đặc “Từng chén mủ rót vô thùng”, trong “mây sương bạc xóa nỗi niềm”. Anh như múa giáo vung gươm những đường hận- cơn oán giận không nguôi vì “nay buốt giằng rào gai/ tấy nhọt phi trường quân sự/ Long Bình nhức ứa đạn bom”: Nào “Súc sanh khổ kiếp tanh hôi/ Đớp mồi loài nọ, làm mồi giống kia/ Cõi người vay trả đầm đìa/ Thiên tai, cốt nhục, chia lìa, chiến tranh”.
“Dẫu băm nhỏ con đỉa vẫn không trát khít hình rịt vết thương” (Quote: Nhã Thuyên) - Vũ Xuân Hương mang trong mình hình hài vết đau tái mủ như cây Xà Nu, đồi Cao Su quê anh. Đó cũng là vết đau chung của của dân tộc, của thân phận, của kiếp sống nồng màu “xám vàng – loang lỗ/ quặn lòng em phía lặn mặt trời”. “Những chu kì tiến hóa tự thân”, sự vận động lồng lên như “luồng xoắn ốc”. Anh thấy hành trình phát triển thật đáng sợ như “đêm hí trường La Mã cổ”… những “mắt người khoái trá” trong cuộc thái xẻ, giết chóc.
Rõ ràng trong tổng thể bức bích họa, thì nét vẽ đăm chiêu nhiều hơn vầng thiều quang hi vọng - đeo ách trong tâm tưởng một nỗi bồn chồn khôn tả xiết như “dòng sông chảy cồn cào qua lịch sử”, “đêm sập đầy đôi mắt của nhà thơ”…
Vũ Xuân Hương, trước hết đã nặng lòng với thế thái nhân tình, sau những cáng đáng vị nhân không thành, bởi “lòng ta rộng nhưng lượng đời cứ chật” (Quote: Xuân Diệu) - Anh mới “oằn oại” “lết cô đơn qua kiếp phận nhọc nhằn” và tìm cho mình một chốn nương trú, tựa vào đôi ba hạt nắng chiều “xiên xiên” ghi “NHẬT KÍ” với những nét “tầm thường” đơn nhất có thể. Trong 101 trang thơ, giữa tập (tr52, 53) là một “khoảng trắng/ lặng” được cọ màu rảy thô lên mà chẳng chăm chút, điểm trang. Nhưng có phải, khi người đọc trải nghiệm chán chường vẻ đẹp đậm đà, lưu cữu, người ta lại khát khao tìm về sự thuần lành, giản dị - Cái thuần lành, giản dị ở đây cũng là dụng ý của tác giả để nói về “tình yêu”. Tình yêu thì đâu cầu kì thi vị. Nó tự bật âm chân thành, thô mộc và đơn điệu…, đó mới là bản chất chân chính mà con người luôn nỗ lực kiếm tìm nơi người mình thương yêu.
Tựu trung, trong “Khúc nhen chiều” là cuộc “truy vấn” không ngừng của nhà thơ với chính mình và với đời sống. Cuộc “truy vấn” trong những chuỗi dài bất an, cô độc, trơ trụi. Nhưng đó cũng là cuộc vận động tự thân để cá nhân thêm mãnh liệt, hiên ngang, rồi tìm lối trở về bình yên nội tại. Tiếng nói tinh thần trong thi ca là tiếng lòng da diết, tiếng cồng chiêng róng riết đánh động thông sâu những man trá khuất lấp đang ăn mòn lương tri. Cấu hình thẩm mỹ đa thanh, đa nghệ trong “Khúc nhen chiều” đã cho thấy sự am hiểu hay tinh thần năng chuyên tích lũy kiến thức cũng như sự đọc cần mẫn, tinh tường của tác giả: âm nhạc, hội họa, triết học, tôn giáo và cả công nghệ đều được vận dụng khéo léo, sáng lạ để thơ nở ra biên độ tồn tại và liên tưởng rộng rãi hơn…
‘Phận ủy phi cô bồng” – như mây lẻ vượt đèo/ một “con chim rừng gãy cánh giữa đường bay”… hẳn thi nhân đã giăng trải đời mình kinh qua những cú đùa ác của gió bụi phong nhiêu, để rồi chọn tín ngưỡng/ niềm tin vào sự vĩnh cửu của thi ca - bức họa. Từ tiếng vỡ khóc tận hang mạch đáy lòng cho trăm năm/ một đời trăn trở sống làm sao cho đẹp lành giữa biến cố khổ đau - hẳn nhiên, đó là một niềm kính tín tin yêu đầy can đảm. Là một cây rừng đứng sững lưng trời chiêm ngắm “trời mưa nắng - lẽ vô thường…” vậy thôi! Tôi đã thấy một Vũ Xuân Hương lặng lẽ, an tĩnh trong thơ.