TIN TỨC

“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-09-16 16:01:05
mail facebook google pos stwis
1277 lượt xem

Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc. 

TS. HOÀNG THỊ THU THỦY

Tôi xem bài thơ “Yêu thơ” của nữ thi sĩ Nguyễn Thị Phương Nam trong tập thơ “Dòng sông và nỗi nhớ” như là tuyên ngôn thơ: “Tiếng đài khuya vọng ngân nga/ Thơ ơi vang mãi thiết tha mặn nồng/ Từng câu từng ý vào lòng/ Yêu thơ ta nguyện thủy chung trọn đời”; “Thơ, làm nhịp cầu nối hai tâm hồn/ Thơ, giúp em vượt qua ngàn cay đắng” (Để em thức cùng thơ – Gửi vào khoảng lặng). Chị từng là nhà giáo (1969 - 1981), rồi chuyển sang công tác tại Tổng công ty 28, Tổng cục Hậu Cần Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng và mang quân hàm Trung tá QNCN, chị là Hội viên Hội nhà văn TP. Hồ Chí Minh. Thơ là cứu cánh cho nữ thi sĩ – nhà giáo, nữ thi sĩ – quân nhân trong những năm tháng vừa làm tròn nhiệm vụ của một công dân vừa làm tròn bổn phận của một người vợ thủy chung, một người mẹ đảm đang và cả khi lên chức bà hiền hậu, thân thương. Thủy chung cùng thơ, yêu thơ và sáng tác, cho đến nay chị đã lần lượt xuất bản 7 tập thơ: “Dòng sông và nỗi nhớ” (2006); “Hương thiên lý” (2013), “Vọng mãi lời ru” (Sưu tầm, 2014), “Nơi đó có tình yêu” (2016), “Gửi vào khoảng lặng” (2018) “Thì thầm tiếng gió” (2021); và chị vừa ra mắt tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” vào năm 2025.

 “Dưới khoảng trời xanh ấy/ Có ngày xưa đôi ta/ Trĩu ân tình biết mấy/ Câu thơ níu quê nhà” (Khoảng trời xanh ký ức). Lấy tên bài thơ “Khoảng trời xanh ký ức” làm tựa đề cho tập thơ, nhà thơ đã gửi gắm vào trong đó những ký ức ngọt ngào về tình yêu, về mẹ, về quê hương, về nghề nghiệp, về những khoảng thời gian thăng trầm với mọi buồn vui cùng cảm xúc dâng trào: “Có vệt phấn vắt ngang/ Tuổi thơ thành trí tuệ/ Từ những lời cô giảng/ Ôi! Mênh mang quê nhà… Dưới khoảng trời xanh ấy/ Cánh chim chiều nghiêng chao/ Gom hoàng hôn vào tối/ Thương ngày xưa chiến hào”. Chọn thể thơ 5 chữ, cùng lối hồi tưởng chắt lọc cùng thi tứ, bài thơ như mở ra một vùng ký ức thật đẹp, dẫu có gian khó thì vùng ký ức đó vẫn mang màu hồng bởi cái nhìn của thi sĩ đầy trân trọng, thương yêu. Câu thơ “Cánh chim chiều nghiêng chao/ Gom hoàng hôn vào tối” quá hay. “Cánh chim chiều” là thi ảnh quen thuộc trong thi ca từ cổ điển đến hiện đại. Trong khoảng trời xanh biếc chị đã nhận ra cái bé nhỏ, cô đơn khi đối diện với hai hình ảnh đối lập giữa cánh chim và bầu trời. Cánh cò trắng trong câu thơ “Bạch lộ song song phi hạ điền”([1]) – (Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng – bản dịch của Ngô tất Tố) là điểm sáng trong tâm thức thi nhân Trần Nhân Tông khi trời đã nhá nhem, nhập nhoạng. Còn với nữ thi sĩ Nguyễn Thị Phương Nam thì cánh chim càng tô đậm thêm bóng tối “Gom hoàng hôn vào tối” – một cảm nhận hết sức chân thực với cái nhìn từng trải và những trải nghiệm trong chính hành trình của chị với cuộc đời và thơ ca. Nên mỗi bài thơ trong tập thơ của chị là những tri âm gửi từ lòng mình đến độc giả.

Nhật ký thơ của chị hiển hiện trên mỗi vui buồn “nhớ về thời hoa lửa, nhớ mẹ, nhớ những người thân thương”; lòng biết ơn với những sự kiện “Nhận huy hiệu Đảng”, “Kỷ niệm ngày cưới”, “Mừng sinh nhật con”, “Mừng cháu nhận bằng tốt nghiệp”… cùng những biến cố về bệnh tật, về Covid… Thế giới thơ của chị thân thương, gần gũi, dường như cuộc sống cùng những suy tư chị đều gửi vào “Khoảng trời xanh ký ức”. Vì là nhật ký bằng thơ nên thể thơ 5 chữ đắc dụng trong việc chuyển tải cảm xúc cùng thi ảnh, thể thơ này mang vẻ đẹp dung dị mà lại có khả năng chuyển tải sâu sắc những cảm xúc và ý tưởng phong phú. Đa phần những bài thơ trong tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” được viết theo thể thơ 5 chữ.

Hình ảnh người mẹ trong thơ chị vừa mang dáng dấp của những người mẹ Việt Nam tảo tần, lo toan, chịu đựng, hi sinh vì chồng con; vừa mang nét riêng của miền đất khói lửa Vĩnh Linh - Quảng Trị: “Cha theo tiếng gọi non sông/ Đi theo cách mạng trong vùng chiến khu/ Hỡi ôi viên đạn quân thù/ Bắn cha ngã gục bên bờ suối xa/ Mênh mông trời đất bao la/ Một đàn con dại mẹ già gian nan/ Chị em phân tán đôi đàng/ Làm thuê ở mướn kiếm ăn qua ngày” (Bài thơ dâng mẹ). “Trải qua bao năm tháng/ Mẹ tần tảo nuôi con/ Đôi vai mẹ gầy mòn/ Đôi bàn tay rám nắng/ Gian nan và cay đắng/ vất vả cứ đong đầy”; bài thơ còn là lời nhắn nhủ thiết tha về tình mẫu tử thiêng liêng: “Nhắn ai còn có mẹ/ Đừng để tháng ngày trôi/ Sau này dù ân hận/ Khi đó đã muộn rồi” (Ký ức về mẹ)

 “Ngày tháng cứ trôi đi/ Thơ thì thầm muốn nói/ Thời gian ơi chậm lại/ Lòng xưa còn thiết tha” (Thời gian ơi chậm lại). Không hiểu sao khi đọc những câu thơ này lòng tôi trào dâng cảm xúc tiếc nuối. Một người thơ tha thiết, đi cùng thơ trọn đời; một cô giáo dạy văn bao năm truyền lửa cho trò; một người lính kiên trung một lòng theo lý tưởng… chợt buồn vì bi kịch thời gian, đó là bi kịch mà ai cũng trải qua giữa thời gian vũ trụ vần vũ đến rồi lại đi và thời gian đời người ngắn ngủi. Làm vợ, làm mẹ, làm bà chị có ít thời gian dành cho bản thân (kể từ khi anh vào viện với bệnh tim), vậy mà vẫn có những vần thơ tha thiết với cuộc sống, với những miền đất chị đặt chân đến thì quá trân trọng, những bài thơ “Về Tiền Giang”, “Thăm tượng đài Nguyễn Huệ bên sông Tiền”, “Biển chiều Phan Thiết”, “Đêm giao lưu với đoàn 146 hải quân”… là những xúc cảm dâng trào trong trái tim thi sĩ, bởi đó là khoảng thời gian hạnh phúc của chị, khi thảnh thơi ngắm nhìn, khi vui vẻ cùng đồng đội.

 “Mũi Né đây rồi em biết không/ Gió chiều lồng lộng đuổi mây hồng/ Dập dồn sóng trắng xô bờ cát/ Những ngọn dừa xanh ai vít cong?/ Em ở đâu dưới trời Phan Thiết? Nhìn tấm hình em giữa mênh mông/ Ước gì với nhau cùng một chuyến/ Cùng ngắm biển chiều đỡ nhớ mong” (Biển chiều Phan Thiết). Thi tứ bài thơ quá tình, giọng thơ nữ tính dịu dàng như chính cái dịu dàng của tính cách nhà thơ. Những câu thơ vừa lấp lánh thi ảnh, vừa quấn quýt tâm tình, vừa chứa chan cảm xúc và trên hết vẫn là tài thơ trong cấu tứ thi ảnh “Dập dồn sóng trắng xô bờ cát/ Những ngọn dừa xanh ai vít cong?”, cái nhìn thi nhân rất lạ, rất mới cùng câu hỏi tu từ “Những ngọn dừa xanh ai vít cong?”.

Thi tứ “Chiếc lá mùa thu” chứa chan ký ức về một thời hoa lửa, về những nhớ mong, chờ đợi; chọn “chiếc lá” như một nốt nhạc trầm bổng trong hành trình trở về với ký ức cũng là sáng tạo trong thi ca và chị đã làm mới cho chính mình với những vần thơ dặt dìu kỷ niệm: “Mùa thu đi qua từng chiếc lá/ Trong gió chiều thấp thoáng bay bay/ Lòng bỗng trở về một ngày thu năm ấy/ dưới gốc cây già, lá chạm khẽ bờ vai” (Chiếc lá mùa thu)

Người đọc cảm mến thơ chị bởi cái giọng thơ đằm thắm, dịu dàng, nữ tính, tình yêu và sự thủy chung là điểm tựa cho chị vượt lên tất cả: “Những đóa hoa hồng gửi tặng ông/ “Tình yêu” hòa quyện với “thủy chung”/ Bốn chữ thiêng liêng luôn gìn giữ/ Hạnh phúc trọn đời con cháu mong” (Mừng sinh nhật thời Covid). Đi qua năm tháng, từ sự chờ đợi “Ôi nỗi niềm vợ lính/ Cứ đợi chờ nhớ thương” (Hai năm sau ngày cưới), đến hòa bình đoàn tụ “Chuyển vào Nam theo chồng” (Cuộc thiên di vội vã), rồi cùng nhau trải qua bao thăng trầm, giờ đến độ tuổi mà “anh ốm, chị chăm”, cùng nhau vượt qua bạo bệnh, hi vọng và yêu thương.

Nhật kí thơ” trong “Khoảng trời xanh ký ức” với đầy đủ các cung bậc cảm xúc, nơi đó chị gửi gắm tình yêu, nỗi ước mong, hy vọng và những cảm xúc thương cảm trước tình bạn, tình yêu, tình cảm gia đình… Xem thơ là cứu cánh, nên cảm xúc trong thơ chị chân thật, bày tỏ đúng những gì nhà thơ cảm nhận từ tấm lòng, có chiều sâu nên gợi lên những duy tư và đồng cảm của người đọc, đó cũng là lý do để tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” chạm đến trái tim độc giả.

Thi pháp thể loại ở tập thơ này không có nhiều đột biến, đa phần là thơ 5 chữ, một vài bài theo thể thơ lục bát – thơ lục bát cũng là thế mạnh của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam, vì với thể thơ này chị thường có những câu thơ xuất thần, và tứ thơ hay. Bài thơ “Ai ra xứ Huế đừng quên” là một ví dụ. Là “nhật ký thơ” bộc bạch cảm xúc với những vùng đất, những con người thân thương nên ở tập thơ này chị vẫn tiếp nối giọng thơ thủ thỉ, tâm tình như ở những tập thơ trước. Giọng thơ ít biến đổi, chứng tỏ nữ thi sĩ đã vượt qua những cảm xúc thông thường để gửi vào thơ những gì lắng đọng, yêu thương, đó là điều khiến cho thơ chị có thật nhiều thương mến.

Huế, ngày 16/9/2025


([1]) Thiên trường vãn vọng – Trần Nhân Tông

Bài viết liên quan

Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm