- Lý luận - Phê bình
- “Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
“Khoảng trời xanh ký ức” – khúc lắng đọng, yêu thương
Sau buổi ra mắt ấm áp tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” (30/5/2025), bài viết của TS. Hoàng Thị Thu Thủy tiếp tục khắc họa nét đẹp dung dị và giàu cảm xúc trong thơ Nguyễn Thị Phương Nam – một “nhật ký tâm hồn” chạm đến trái tim người đọc.
TS. HOÀNG THỊ THU THỦY
Tôi xem bài thơ “Yêu thơ” của nữ thi sĩ Nguyễn Thị Phương Nam trong tập thơ “Dòng sông và nỗi nhớ” như là tuyên ngôn thơ: “Tiếng đài khuya vọng ngân nga/ Thơ ơi vang mãi thiết tha mặn nồng/ Từng câu từng ý vào lòng/ Yêu thơ ta nguyện thủy chung trọn đời”; “Thơ, làm nhịp cầu nối hai tâm hồn/ Thơ, giúp em vượt qua ngàn cay đắng” (Để em thức cùng thơ – Gửi vào khoảng lặng). Chị từng là nhà giáo (1969 - 1981), rồi chuyển sang công tác tại Tổng công ty 28, Tổng cục Hậu Cần Kỹ thuật, Bộ Quốc phòng và mang quân hàm Trung tá QNCN, chị là Hội viên Hội nhà văn TP. Hồ Chí Minh. Thơ là cứu cánh cho nữ thi sĩ – nhà giáo, nữ thi sĩ – quân nhân trong những năm tháng vừa làm tròn nhiệm vụ của một công dân vừa làm tròn bổn phận của một người vợ thủy chung, một người mẹ đảm đang và cả khi lên chức bà hiền hậu, thân thương. Thủy chung cùng thơ, yêu thơ và sáng tác, cho đến nay chị đã lần lượt xuất bản 7 tập thơ: “Dòng sông và nỗi nhớ” (2006); “Hương thiên lý” (2013), “Vọng mãi lời ru” (Sưu tầm, 2014), “Nơi đó có tình yêu” (2016), “Gửi vào khoảng lặng” (2018) “Thì thầm tiếng gió” (2021); và chị vừa ra mắt tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” vào năm 2025.
“Dưới khoảng trời xanh ấy/ Có ngày xưa đôi ta/ Trĩu ân tình biết mấy/ Câu thơ níu quê nhà” (Khoảng trời xanh ký ức). Lấy tên bài thơ “Khoảng trời xanh ký ức” làm tựa đề cho tập thơ, nhà thơ đã gửi gắm vào trong đó những ký ức ngọt ngào về tình yêu, về mẹ, về quê hương, về nghề nghiệp, về những khoảng thời gian thăng trầm với mọi buồn vui cùng cảm xúc dâng trào: “Có vệt phấn vắt ngang/ Tuổi thơ thành trí tuệ/ Từ những lời cô giảng/ Ôi! Mênh mang quê nhà… Dưới khoảng trời xanh ấy/ Cánh chim chiều nghiêng chao/ Gom hoàng hôn vào tối/ Thương ngày xưa chiến hào”. Chọn thể thơ 5 chữ, cùng lối hồi tưởng chắt lọc cùng thi tứ, bài thơ như mở ra một vùng ký ức thật đẹp, dẫu có gian khó thì vùng ký ức đó vẫn mang màu hồng bởi cái nhìn của thi sĩ đầy trân trọng, thương yêu. Câu thơ “Cánh chim chiều nghiêng chao/ Gom hoàng hôn vào tối” quá hay. “Cánh chim chiều” là thi ảnh quen thuộc trong thi ca từ cổ điển đến hiện đại. Trong khoảng trời xanh biếc chị đã nhận ra cái bé nhỏ, cô đơn khi đối diện với hai hình ảnh đối lập giữa cánh chim và bầu trời. Cánh cò trắng trong câu thơ “Bạch lộ song song phi hạ điền”([1]) – (Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng – bản dịch của Ngô tất Tố) là điểm sáng trong tâm thức thi nhân Trần Nhân Tông khi trời đã nhá nhem, nhập nhoạng. Còn với nữ thi sĩ Nguyễn Thị Phương Nam thì cánh chim càng tô đậm thêm bóng tối “Gom hoàng hôn vào tối” – một cảm nhận hết sức chân thực với cái nhìn từng trải và những trải nghiệm trong chính hành trình của chị với cuộc đời và thơ ca. Nên mỗi bài thơ trong tập thơ của chị là những tri âm gửi từ lòng mình đến độc giả.
Nhật ký thơ của chị hiển hiện trên mỗi vui buồn “nhớ về thời hoa lửa, nhớ mẹ, nhớ những người thân thương”; lòng biết ơn với những sự kiện “Nhận huy hiệu Đảng”, “Kỷ niệm ngày cưới”, “Mừng sinh nhật con”, “Mừng cháu nhận bằng tốt nghiệp”… cùng những biến cố về bệnh tật, về Covid… Thế giới thơ của chị thân thương, gần gũi, dường như cuộc sống cùng những suy tư chị đều gửi vào “Khoảng trời xanh ký ức”. Vì là nhật ký bằng thơ nên thể thơ 5 chữ đắc dụng trong việc chuyển tải cảm xúc cùng thi ảnh, thể thơ này mang vẻ đẹp dung dị mà lại có khả năng chuyển tải sâu sắc những cảm xúc và ý tưởng phong phú. Đa phần những bài thơ trong tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” được viết theo thể thơ 5 chữ.
Hình ảnh người mẹ trong thơ chị vừa mang dáng dấp của những người mẹ Việt Nam tảo tần, lo toan, chịu đựng, hi sinh vì chồng con; vừa mang nét riêng của miền đất khói lửa Vĩnh Linh - Quảng Trị: “Cha theo tiếng gọi non sông/ Đi theo cách mạng trong vùng chiến khu/ Hỡi ôi viên đạn quân thù/ Bắn cha ngã gục bên bờ suối xa/ Mênh mông trời đất bao la/ Một đàn con dại mẹ già gian nan/ Chị em phân tán đôi đàng/ Làm thuê ở mướn kiếm ăn qua ngày” (Bài thơ dâng mẹ). “Trải qua bao năm tháng/ Mẹ tần tảo nuôi con/ Đôi vai mẹ gầy mòn/ Đôi bàn tay rám nắng/ Gian nan và cay đắng/ vất vả cứ đong đầy”; bài thơ còn là lời nhắn nhủ thiết tha về tình mẫu tử thiêng liêng: “Nhắn ai còn có mẹ/ Đừng để tháng ngày trôi/ Sau này dù ân hận/ Khi đó đã muộn rồi” (Ký ức về mẹ)
“Ngày tháng cứ trôi đi/ Thơ thì thầm muốn nói/ Thời gian ơi chậm lại/ Lòng xưa còn thiết tha” (Thời gian ơi chậm lại). Không hiểu sao khi đọc những câu thơ này lòng tôi trào dâng cảm xúc tiếc nuối. Một người thơ tha thiết, đi cùng thơ trọn đời; một cô giáo dạy văn bao năm truyền lửa cho trò; một người lính kiên trung một lòng theo lý tưởng… chợt buồn vì bi kịch thời gian, đó là bi kịch mà ai cũng trải qua giữa thời gian vũ trụ vần vũ đến rồi lại đi và thời gian đời người ngắn ngủi. Làm vợ, làm mẹ, làm bà chị có ít thời gian dành cho bản thân (kể từ khi anh vào viện với bệnh tim), vậy mà vẫn có những vần thơ tha thiết với cuộc sống, với những miền đất chị đặt chân đến thì quá trân trọng, những bài thơ “Về Tiền Giang”, “Thăm tượng đài Nguyễn Huệ bên sông Tiền”, “Biển chiều Phan Thiết”, “Đêm giao lưu với đoàn 146 hải quân”… là những xúc cảm dâng trào trong trái tim thi sĩ, bởi đó là khoảng thời gian hạnh phúc của chị, khi thảnh thơi ngắm nhìn, khi vui vẻ cùng đồng đội.
“Mũi Né đây rồi em biết không/ Gió chiều lồng lộng đuổi mây hồng/ Dập dồn sóng trắng xô bờ cát/ Những ngọn dừa xanh ai vít cong?/ Em ở đâu dưới trời Phan Thiết? Nhìn tấm hình em giữa mênh mông/ Ước gì với nhau cùng một chuyến/ Cùng ngắm biển chiều đỡ nhớ mong” (Biển chiều Phan Thiết). Thi tứ bài thơ quá tình, giọng thơ nữ tính dịu dàng như chính cái dịu dàng của tính cách nhà thơ. Những câu thơ vừa lấp lánh thi ảnh, vừa quấn quýt tâm tình, vừa chứa chan cảm xúc và trên hết vẫn là tài thơ trong cấu tứ thi ảnh “Dập dồn sóng trắng xô bờ cát/ Những ngọn dừa xanh ai vít cong?”, cái nhìn thi nhân rất lạ, rất mới cùng câu hỏi tu từ “Những ngọn dừa xanh ai vít cong?”.
Thi tứ “Chiếc lá mùa thu” chứa chan ký ức về một thời hoa lửa, về những nhớ mong, chờ đợi; chọn “chiếc lá” như một nốt nhạc trầm bổng trong hành trình trở về với ký ức cũng là sáng tạo trong thi ca và chị đã làm mới cho chính mình với những vần thơ dặt dìu kỷ niệm: “Mùa thu đi qua từng chiếc lá/ Trong gió chiều thấp thoáng bay bay/ Lòng bỗng trở về một ngày thu năm ấy/ dưới gốc cây già, lá chạm khẽ bờ vai” (Chiếc lá mùa thu)
Người đọc cảm mến thơ chị bởi cái giọng thơ đằm thắm, dịu dàng, nữ tính, tình yêu và sự thủy chung là điểm tựa cho chị vượt lên tất cả: “Những đóa hoa hồng gửi tặng ông/ “Tình yêu” hòa quyện với “thủy chung”/ Bốn chữ thiêng liêng luôn gìn giữ/ Hạnh phúc trọn đời con cháu mong” (Mừng sinh nhật thời Covid). Đi qua năm tháng, từ sự chờ đợi “Ôi nỗi niềm vợ lính/ Cứ đợi chờ nhớ thương” (Hai năm sau ngày cưới), đến hòa bình đoàn tụ “Chuyển vào Nam theo chồng” (Cuộc thiên di vội vã), rồi cùng nhau trải qua bao thăng trầm, giờ đến độ tuổi mà “anh ốm, chị chăm”, cùng nhau vượt qua bạo bệnh, hi vọng và yêu thương.
“Nhật kí thơ” trong “Khoảng trời xanh ký ức” với đầy đủ các cung bậc cảm xúc, nơi đó chị gửi gắm tình yêu, nỗi ước mong, hy vọng và những cảm xúc thương cảm trước tình bạn, tình yêu, tình cảm gia đình… Xem thơ là cứu cánh, nên cảm xúc trong thơ chị chân thật, bày tỏ đúng những gì nhà thơ cảm nhận từ tấm lòng, có chiều sâu nên gợi lên những duy tư và đồng cảm của người đọc, đó cũng là lý do để tập thơ “Khoảng trời xanh ký ức” chạm đến trái tim độc giả.
Thi pháp thể loại ở tập thơ này không có nhiều đột biến, đa phần là thơ 5 chữ, một vài bài theo thể thơ lục bát – thơ lục bát cũng là thế mạnh của nhà thơ Nguyễn Thị Phương Nam, vì với thể thơ này chị thường có những câu thơ xuất thần, và tứ thơ hay. Bài thơ “Ai ra xứ Huế đừng quên” là một ví dụ. Là “nhật ký thơ” bộc bạch cảm xúc với những vùng đất, những con người thân thương nên ở tập thơ này chị vẫn tiếp nối giọng thơ thủ thỉ, tâm tình như ở những tập thơ trước. Giọng thơ ít biến đổi, chứng tỏ nữ thi sĩ đã vượt qua những cảm xúc thông thường để gửi vào thơ những gì lắng đọng, yêu thương, đó là điều khiến cho thơ chị có thật nhiều thương mến.
Huế, ngày 16/9/2025
([1]) Thiên trường vãn vọng – Trần Nhân Tông