TIN TỨC

Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-09-22 15:37:48
mail facebook google pos stwis
2019 lượt xem

Sáng 23/9/2025, Nhóm “Bạn văn & Miền chữ” sẽ tổ chức ra mắt cuốn sách Chữ gọi mùa trăng của nhà thơ Triệu Kim Loan – hội viên Hội Nhà văn TP.HCM. Bằng giọng văn tha thiết và sự đồng cảm sâu xa, Nguyên Bình đã dẫn dắt độc giả bước vào thế giới thi ca trong tập thơ mới này. Bài viết không chỉ soi chiếu những giá trị ngôn ngữ, cảm xúc và chiều sâu nhân bản của thơ, mà còn làm nổi bật sự chín muồi trong hành trình sáng tạo của tác giả. Một góc nhìn đằm thắm, giàu trải nghiệm để người đọc thêm trân trọng thi phẩm và tình yêu thơ ca.
 

NGUYÊN BÌNH

(Cảm nhận tác phẩm “Chữ gọi mùa trăng”)


 

Nhà thơ Triệu Kim Loan đưa tôi vào không gian thơ đằm thắm mà đầy ắp những suy niệm mới mẻ, câu chữ tinh khiết như linh hồn thiên thanh, cấu trúc ngôn ngữ trong mỗi bài thơ thể hiện sự tìm tòi nghiêm túc hướng về xu thế hiện đại. Đó là đôi nét phác họa về hành trình cảm thụ, giao thoa với tác phẩm CHỮ GỌI MÙA TRĂNG do Nhà xuất bản Hội Nhà văn cấp phép ấn hành 2025. Có thể nói, thi tập mới của nhà thơ Triệu Kim Loan (TKL) là nơi cất giấu nội hàm tư duy bao quát về cuộc sống, lại là nơi phơi bày sự tinh túy về thi ý, thi ngôn, thi ảnh sau năm tác phẩm chị xuất bản khá thành công. Ngôn ngữ thơ Triệu Kim Loan càng ngày càng đẹp, mỗi bước đi trên con đường sáng tác ngày càng vững vàng, đầy thuyết phục.

“Chữ gọi mùa trăng” là bài thơ đầu tiên trong tập thơ CHỮ GỌI MÙA TRĂNG (CGMT). Thể loại thơ - văn xuôi được chị sắp đặt ấn tượng, và quan trọng hơn là bài thơ chủ đề chứa đựng nội dung khái quát, phạm vi suy tưởng kỳ vĩ với tâm thế trưởng thành, điểm đạm và tự tin đến mức hồn nhiên. Bài thơ xứng đáng là thông điệp, là khát vọng, là trái tim của thi tập. Phải chăng đó là kết quả của niềm say mê, sự trải nghiệm, trách nhiệm sáng tác của một nhà thơ - nhà giáo - Th.Sĩ văn chương. Trong bài thơ tiêu biểu này, Triệu Kim Loan nêm chặt nhiều liên tưởng thú vị “Những ký tự dắt tay nhau đi về phía hoàng hôn”, lồng trong một không gian thơ bát ngát, thiêng liêng:“Bên núi đồi trập trùng miền trung du đất Tổ”, nơi tác giả đau đáu trút hết tâm tư, mở rộng cửa trái tim thơ để: “gieo cạn yêu thương lên cánh đồng gió chướng” rồi trở về với niềm tin cuộc sống “xanh mướt như đời”:

Ngước lên trời cao giữa đêm đợi bình minh.
Muôn ngàn vì sao không vì ai cứ sáng. Em đã
gieo cạn yêu thương lên cánh đồng gió chướng.
Mầm thương yêu lại xanh mướt như đời.

(Chữ gọi mùa trăng)

Tôi (Nguyên Bình) xin phép đi sâu vào mạch thơ đầy cảm xúc và tinh tế trong CGMT, du hành để khám phá đáy thẳm của tâm hồn đa cảm cộng với cảm thức thơ đã chín muồi suốt hành trình suy nghiệm Chữ gọi mùa trăng.

Có thể nói, khả năng dụng ngôn đã vượt thoát cấu trúc ngữ pháp bài bản, truyền thống trong quá trình sáng tạo của nhà thơ. Soi chiếu mỗi câu thơ dưới đây, ta dễ dàng nhận thấy hầu như câu nào cũng lấp lánh thăng hoa, “thơ đáng là thơ” với bàn tay như có phép mầu, TKL tạo ra “hoa văn ngôn từ” độc đáo, ngay trong thể loại lục bát:

Nhóm bình minh lúc phân thân
Vòng tay người quấn những chần chừ em
Mình xây cổ tích nhiều đêm
Trăng là nhân chứng cùng em dịu dàng...

(Hoài niệm biển)

Các bạn hãy kiên nhẫn cho phép tôi (dài hơi) dẫn thêm một bài thơ năm chữ, (quá tam ba bận), để chứng minh rằng, dưới ngòi bút của TKL, không gian văn hóa Việt cổ kính cũng là điểm hẹn cho ngôn từ nhảy múa cùng với cảm xúc và cung bậc hiện đại một cách tự nhiên:

Lòng vẫn nguyên ngọc bích
Cốm Làng Vòng thương sen
Anh có còn anh cũ?
Em giờ vẫn em nguyên

(Ngọc lan đêm)

Thành công của một thi tập là sự gắn kết những bài thơ tạo thành một không gian thi vị đặc trưng chứa đựng hơi thở của riêng tác giả, nơi mà tâm thức thơ tuôn trào dòng suối thơ đồng điệu, mát lành chứ không phải là những ý tưởng cóp nhặt. TKL đã làm chủ cái không gian ấy, làm chủ căn nhà thơ của mình. Ta có thể khẳng định chủ điểm trên khi phân tích tác giả sử dụng thể thơ lục bát để trần tình với chính mình trong dịp tìm về với nét văn hóa truyền thống. Chị khéo léo nắm tay chúng ta cùng chị thưởng thức một làn quan họ người ơi người ở đừng về: Giấc đêm trở lại quê nhà/ Xoan vừa chạm ngõ tháng ba hội làng/ Lí lơi câu ghẹo bên đàng/ Lá răm lúng liếng bước sang vườn trầu (Giấu đêm)

Thế nhưng, ngày bước chân lên cao nguyên Lang Biang, thăm thành phố Đà Lạt mộng mơ, thơ chị lại như ru hồn ta say đắm với chiều sâu xúc cảm bằng nét phác thảo hoang sơ, sau những quan sát và chiêm nghiệm tinh tế: Hoàng hôn khói/ Sương mềm như lụa/ Hồ thẳm sâu/ Soi mắt đóm đang cười. (Hẹn em về cao nguyên). Trong khung cảnh đó, nhà thơ diễn đạt nỗi nhớ rất riêng với một tâm thế tan chảy vào không gian thực tế, sẻ chia nỗi niềm cùng một địa danh thanh lịch và ngay cả với nhánh cỏ lẻ loi. Nỗi nhớ ấy mênh mang dịu dàng tan loãng vào âm thanh của chuông nhớ diệu vợi: Mỗi giây phút xa anh/ Đà Lạt thành nhật kí./ Phím chữ ngân như nốt nhạc không lời/  Nỗi nhớ ấp iu như giọt sương nép mình bên nhánh cỏ/ Dịu dàng tan vào chuông nhớ chơi vơi. (Dịu dàng tan).

Thăm thú miền biên cương đang dậy sóng trong CGMT, ta phát hiện nghìn trùng cách ngăn biển đảo và đất liền, giữa anh và em được TKL hóa giải bằng mật ngôn của sóng. Thơ như từng đợt xao động của sóng âm từ khơi xa dội về bến đợi. Hai bờ cách ngăn được thơ nối liền, chung thủy và thiết tha: Lá thư này anh viết giữa mùa trăng/ Trăng đẹp lắm như em đang mùa chín/ Anh khẽ khàng đợi khuya nhờ cánh sóng/ Mang yêu thương tình tự đất liền em. (Lá thư cánh sóng).

Nàng thơ soi chiếu nội tâm chính mình, tái hiện hoài cảm với một cảm xúc đẹp, thánh thiện trong sự cào xé của nỗi đau đã thấm buốt: “Câu thơ em mắc cạn/ Giằng co giữa lở bồi/ Trái tim vừa thấm buốt/ Có còn nguyên bồi hồi”? (Mơ một ngày nắng hát). Nỗi hụt hẫng trong tình yêu, hạnh phúc được nhà thơ lý giải nhẹ nhàng, chẳng hề xốc nổi, không một lời oán trách. Đó là dấu hiệu nhà thơ quá đủ trưởng thành để xác định rằng, đau thương cũng là một kỷ niệm đáng nhớ trong đời: “Tự giải phẫu nỗi đau/ Thương hình hài goá bụa/ Chút son môi không đủ từ trường/ Thì buông nhé/ Bình an - độ lượng/ Dẫu đò tình xanh lá bạc vôi*. (Hồng gai). Sự chịu đựng âm thầm, khi nếm vị đắng của tình yêu cũng chân thành như khi đang yêu: Những đêm dài/ Từ xa, ai gọi/ Trái tim đau không tự vá nổi mình/ Em đã yêu thật vội/ Uống say mềm/ Giọt mật của dối gian (Độc thoại).

Bên cạnh đó, TKL, với sự giản dị của một tâm hồn độ lượng ngát xanh, chị đã viết những câu thơ thật thà đáng yêu, thể hiện khát vọng gắn kết lứa đôi rất duyên dáng. Chắc hẳn tôi và các bạn khi đọc “Trầu xanh vội trắng/ Tôi và một … thì ai cũng đoan chắc sẽ là một… tôi. Nhưng không, thương quá câu thơ: “Ước gì mưa thuận gió hoà/ Trầu xanh vôi trắng/ Tôi và một ai..”. (Một tôi). Dễ thương đến độ tôi bất giác mỉm một nụ cười.

Bài thơ dưới đây không còn là một cảm xúc thời sự mà là một tiếng thét xé ruột gan. Tôi đau đớn và các bạn cũng đau đớn. Phải chăng đó là sứ mệnh của thơ, thơ cứu rỗi và thức tỉnh lương tri con người:

Mẹ ơi ở đâu
Có nghe con gọi
Chiều muộn từ lâu
Con thèm bữa tối...


Mẹ ơi mẹ ơi
Con nhớ bạn bè
Hẹn rằm tháng tám
Rước đèn kéo xe


Con nằm trong đất
Sâu lắm mẹ ơi
Ước gì cỏ mật
Nâng con lên trời...

(Làng Nủ)

Tôi có dụng ý để dành hai bài thơ mà tôi cho là trang trọng nhất và chân thành nhất đặt ở cuối bài viết.

Bài thứ nhất thể hiện sự hiếu kính muôn đời dành cho bậc sinh thành của tác giả:

Lớn lên từ gánh hàng rong
Mẹ tảo tần ngày mưa tháng hạn
Con chữ thẹn thùng neo thầm nụ nhớ
Phút áo hoa chạm gió sân trường
Ước mơ xanh ủ tàu lá cọ
Mưa đầu mùa
Có giọt biếc trong nhau

(Trổ biếc hương quê)

Và bài thứ hai dành cho các chiến sĩ Điện Biên đã ngã xuống trên đồi A1:

Họ nằm lại như những khúc lặng đếm thời gian.
Những mảnh xương rời vẫn nằm im trong màu
xanh áo trận. Những nén hương thơm nối âm
dương giữa người còn – mất. Hoa lá cỏ cây từ
xương máu luân hồi

(Những người nằm lại đồi A1)

Nét đẹp và sự thành công của thi tập CGMT đã được nhà văn Kao Sơn giới thiệu đầy đủ trong lời tựa. Phần bạt cuối sách cũng có hai bài viết của nhà thơ Hương Thu và Phan Ngọc Quang. Tôi xem phép cảm nhận đôi lời với tình cảm thân thiện dành cho TKL, một “muội” rất dễ mến luôn gọi tôi là huynh. Và đó là niềm vui mà thơ mang lại.

Chúc muội TKL ra mắt, phát hành thành công tác phẩm thơ thứ sáu CHỮ GỌI MÙA TRĂNG của mình.

Bà Rịa, ngày 20 tháng 9 năm 2025

N.B.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm