TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước

Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-09-23 20:45:21
mail facebook google pos stwis
367 lượt xem

BẢO BÌNH

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.

Nhà thơ Trúc Linh Lan

Là vậy đó, khi ta sâu nặng với thế giới thi ca mới thấy hết cái hàm sâu ẩn chứa huyền diệu mà nó mang lại. Cái cẩn mật, biến hoá của ngôn từ thật là diễm tuyệt lắm thay! Và, Trúc Linh Lan - nhà thơ của đồng bằng - luôn trăn trở về muôn trùng nhân thế, buồn thương cho số phận đa đoan người đàn bà cùng những thăng trầm, đổi thay cuộc sống.

 “Một đời mẹ vất vả

Đi qua bao mùa đông

Đi qua nhiều cơn gió

Đi qua nhiều dòng sông

(Một ngày xin đừng đến)

Với đời, có lẽ thứ khiến chị đau đáu, suy tư vẫn là thân phận người đàn bà, kẻ hồng nhan giữa những đoạn trường của cuộc bể dâu. Vì lẽ đó, tiếng thơ chị khi trầm lắng, nỉ non; lúc bi ai, bất lực… đầy thương cảm. “Kiếp hường nhan lắm lao đao/ Luồn kim se chỉ nghẹn ngào tâm tư/ À ơi! ngọn gió “mùa thu…”/ Năm canh mẹ thức để ru đời mình” (Tiếng ru buồn), Chị đúng là nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước.

Khi đứng trước một tấm ảnh ở bảo tàng, cảm xúc trong chị rung lên, tràn dâng một sự đắng chát, nghèn nghẹn “Đập vào mắt tôi là một bàn chân/bàn chân lam lũ,nứt nẻ, sần sùi/ bàn chân của mẹ/đi suốt chiều dài chiến tranh”(ấn tượng từ một tấm ảnh ở bảo tàng Bến Tre). Nếu là bạn, bạn sẽ thế nào trong hoàn cảnh ấy? khi ngắm một bức ảnh? Thực ra, với nhà thơ, lúc đó không phải là một bức ảnh nữa, mà là cả một cuộc đời. Cuộc đời của một người đàn bà, và những người đàn bà bi đát, bất hạnh, khốn cùng bởi tội ác chiến tranh. Tất cả đang hiện ra, trải dài ra trước mắt chị. Điều đó khiến nhà thơ phẫn uất, đau xót và thương cảm.   

“Bàn tay mẹ gầy như nhánh lá kia

 Mùa đi qua mẹ nhớ thương bạc tóc

Hát bài ca của lá

Những đứa con đi mãi không về…”

(Lời hát của bà mẹ Kam-Pu-Chia)

Thơ không phải là thứ để dạy đời, để đánh tráo… nếu “cố rặn” thì thứ “rặn ra” chỉ là thứ giống với thơ thôi, tôi nghĩ vậy. Nên hơn hết, tôi chỉ có thể cảm được những gì được rung rẩy, thành khẩn từ tim từ óc của người thơ. Và ở đây, chính trong thơ Trúc Linh Lan, tôi đã nhìn thấy điều đó, cảm được điều đó, một trái tim thấm đẫm tình yêu thương dành cho kiếp người truân chuyên, lận đận. “Mẹ tần tảo, mẹ gian truân/ Một đời mưa nắng lưng chừng sắc hương/ Cánh cò chịu khó chịu thương/ Hai vai nặng gánh nhân thường đục-trong (Tiếng ru buồn). Chị cũng không quên dành cho phận hồng nhan bạc mệnh những ngậm ngùi “Tôi chạm vào em, giọt lệ hoàng phi/ Đêm sáng lửa đưa người về với Phật/ Ai rơi lệ xuống thuyền xuôi cố quốc! Gửi lại một thiên thần mang mệnh đế vương? (Chiều Mỹ Sơn). Với đàn bà khổ hạnh, kém phần may mắn, chị dành cho họ niềm cảm thương sâu sắc “Mẹ chồng hy sinh bỏ chị lại giữa đời/ con gởi cô bác, chị lao vào công tác/ đất nước và con-hai vai gánh vác/ lúc một mình chị cắn nát nỗi cô đơn” (Chị). Từ ngữ nhà thơ chọn dùng không quá trau chuốt, chẳng cần bóng bẩy; nhưng tinh tường, sắc sảo. Giọng thơ như lời ru, nhẹ nhàng mà chạm vào ta, thấm thía đến rát đau.

Chưa lần nhận miếng trầu say
Pháo hồng áo cưới – rủi may sang đò
Tình nồng còn ủ lớp tro
Bếp chưa bén lửa… đâu ngờ mưa rơi!

(Năm canh mẹ thức để ru đời mình)

Lứa đôi với những chuyện tình, những ngọt ngào, mất mát; những sum vầy, ly tan… luôn là nỗi niềm rách xước ở mỗi trái tim đi trong cuộc đời này. “Chưa lần nhận miếng trầu say” bước chân theo chồng khi trái tim chưa biết yêu là gì? Và rồi “Bếp chưa bén lửa” cái tình chưa kịp nồng sau buổi vu quy, thì trời nỡ “mưa rơi”. Thế là tắt lửa, đành một cuộc bi ai cho lần “sang đò” may rủi. “Đôi ta mới gặp đã lìa/ Trách ai bẻ khoá quăng chìa xa nhau” (Ca dao) xót xa nào bằng? Một tuổi xuân phơi phới, một khát vọng đầy tràn… phút chốc tan biến cõi không. Và làm sao mà không chơi vơi, hụt hẫng; không mơ ước, khát khao?“Biển xô dạt đời em/ Theo từng cơn sóng dữ/ Một chuỗi đời mệt mỏi/ Bồng bềnh trong cô đơn!/ Một vòng tay - một nụ hôn/ Em từng đêm khao khát/ Ước chi anh là con sông hát/ Đổ vào đời em yêu thương (Ước gì).

Bất chợt, tôi nhớ về những câu thơ của nhà thơ Phú Sĩ “Tôi muốn viết cho em/ Về câu chuyện nợ duyên không chỉ sắc màu hồng/ Đổ vỡ những niềm tin nào trách người bỏ lại/ Muộn phiền vẫn vây quanh đắng cay em nếm trải/ Vẫn như viên ngọc mài… rồi sẽ lại sáng trong”(Người đàn bà vẫn thế đợi yêu thương). Rõ là, đường nợ duyên của phận hường nhan mấy ai là bằng phẳng? nếu không phải “trâm gãy bình tan”,“Tro tàn bếp lạnh”, thì cũng là “quất ngựa truy phong”.

 Người đàn bà đã cũ

Trong trái tim người đàn ông bội bạc

Lâm râm thời gian trên màu tóc

Đa đoan cuộc đời trên mắt xưa

(Những ký âm tháng chín)

Tự hỏi, cuộc đời này, có bao “đàn bà” được “bạch đầu giai lão” trong hạnh phúc lứa đôi? Mỗi một thời đại, mỗi sự đổi thay, tốt dần lên hơn. Tuy vậy, đàn bà vẫn là thân phận mang nhiều nỗi thua thiệt, trái ngang, đau khổ. “Thời gian chừng như vô nghĩa/ Mẹ bạc đầu thức trắng những đêm thâu/ Cô gái nhà bên dù chẳng làm dâu/ Ngày giỗ anh vẫn sang nhà thắp hương lặng lẽ” (Nỗi nhớ của mẹ), nhà thơ ẩn dụ trong sự đồng dạng, miêu tả gợi cảm với đầy đủ màu sắc, âm thanh từ: “mái đầu bạc”, “tiếng bước chân cô gái nhà bên” đến “tiếng thắp hương”… rồi phủ kín không gian, phủ kín bóng người, từ đàn bà già đến đàn bà trẻ, một nỗi xót đau, tróng lạnh.

Có những buổi chiều

Ta buồn

Khi nhìn bóng mẹ ngã theo hoàng hôn

Tóc mù sương

Còng lưng gánh nỗi buồn ký ức

(Chiều)

Đôi lúc, người đọc sẽ bắt gặp chị làm thơ kiểu như đang tâm tình, nó nhẹ nhàng, bình dị nhưng lại chạm vào ta bởi sự chân thiệt sâu sắc nơi lòng “Chuyện cổ tích ngày xưa! Ai khóa kín khu vườn?/ Bầy con lớn lên đứa còn, đứa mất…/ Ba đã trăm năm chuyến đi xa khuất/ Thương má một mình thắp bóng trăng xưa” (Thương má một mình thắp bóng trăng xưa). Những người mẹ, người vợ, những người đàn bà vùng sông nước đồng bằng, yêu chồng thương con. Chẳng màng vất vả. Chẳng màng thanh xuân, “Xanh ngắt màu lá tôi giấu trong chồng thư cũ/ Vô tình gió mở/ Giật mình!/ Xanh đã tàn phai”(Sắc thu phai). Cả một đời, khi bình yên, họ sống vì gia đình; khi ngoại bang xâm lấn, họ sống cho nước nhà. Trái tim họ luôn tím ngát thuỷ chung như giàn hoa cát đằng nở rộ “Giặc càn về máu đỏ nhuộm sông/ Mẹ hy sinh đêm đánh tàu biệt kích/ Trong vòng tay cô bác/ Đưa mẹ về bên giàn cát đằng nở tím thuỷ chung” (Câu chuyện bên dòng Xà No).

Nhà thơ Trần Hữu Dũng như tặng đời nỗi cô đơn, khắc khoải “Ta về mỏi cánh chuồn chuồn/ vô tình chạm phải mùi hương năm nào (Truông gió), thì Trúc Linh Lan cảm thán trong bóng đêm mờ mịt, thiếu hơi người thương “Đêm mất điện tôi ngồi trong bóng tối/ Đen như giọt cà phê đắng buổi chiều buồn/ Thắp ngọn nến nhớ tay người bật lửa/ Một thuở nào… gợi chút bâng khuâng” (Thắp lửa), có phải nhà thơ đang bật lửa? Để sáng lên cái tăm tối của bóng đêm? để ấm lên cõi lòng giá buốt? Ta như nghe được cái lạnh lẽo từ sự tróng vắng của căn nhà đến nỗi tróng lạnh ở trong tâm người đàn bà sớm goá bụa. Một nỗi buồn nhớ, cam đành đến xót xa, quặn thắt “Bây giờ giấu mình trong căn gác tối om/ Cầm trên tay cây nến còn một nửa/ Tự bật quẹt thắp cho mình ngọn lửa/ Sao nghe lòng lạnh lẽo cô đơn?” (Thắp lửa).

Giọng thơ của chị là giọng nói bên trong của không ít số phận người đàn bà. Trước những suy tư, thấu cảm trong tiếng thơ của chị, đôi lúc tôi thấy ám ảnh, bởi nó thật quá, và cũng đau đớn, xót xa quá: “Đi qua ngày/ Khu vườn lạnh tanh hâm hao cơn khát nước/ Mặt trời cười trôi ngược/ Tôi tự nhận ra mình đang đứng ở cuối đông. (Vô thường). Sẽ có không ít người đàn bà bắt gặp bóng hình mình nơi thơ chị. Ngậm ngùi, chua chát.

Trực giác của chị là phần hoà hợp đến thăng hoa của ý thức và tiềm thức, của lý trí và bản năng, của kinh nghiệm sống và nỗi niềm trắc ẩn… và vì lẽ đó, thơ chị bên cạnh vẻ đẹp của ngôn từ, là sự tuôn đầy những khắc khoải, yêu thương, trầm mặc “Chiếc lá xanh em giữ lại cho mình/Vàng mùa thu đi rất khẽ” (Sắc thu phai). Bên cạnh những mới lạ, độc đáo, tinh tế của diễn ngôn, là sự khai thác mọi góc cạnh của đời sống con người, đăc biệt là phận đàn bà, phận hường nhan truân chuyên. Từ cõi thực đến cõi tâm linh, chị đều dành cho họ tình yêu thương, sự trân quý cùng nỗi niềm hoài vọng, tiếc thương.    

Ta chạm vào em. Nỗi buồn nghìn năm trước

Trên từng bức tượng nun dấu tích mấy vương triều

Sự huyền dịu lung linh những bàn tay múa

Từ nụ cười ẩn dấu nét bi thương

(Chiều Mỹ Sơn)

Với đời thường, cùng những gập gềnh, cheo leo, đỉnh dốc… nhà thơ vẫn cố gắng tìm lấy niềm vui sống. Là chị động viên chính mình? Hay động viên những bóng liễu, những tóc dài phận hẩm cõi trần gian này?

Tôi luôn mang theo nụ cười
Mặc dù cuộc đời chẳng mấy niềm vui
Tôi mặc cả hồn nhiên
Cho trái tim ngậm ngùi.
Tôi thấy hình như mình đang leo dốc,
Đỉnh núi mờ xa

(Tôi lừa dối tôi)

Chị không bị khuất phục, dù “Đỉnh núi mờ xa”, và chị mong muốn mọi đàn bà quanh chị cũng đừng khuất phục. Dẫu đôi lúc đó là sự lừa dối chính mình, chị vẫn muốn có sức mạnh để vượt qua tất cả. Và những ai yêu thơ Trúc Linh Lan, bên cạnh nỗi buồn man mác, họ sẽ biết cách tự vỗ về, tự an ủi… để sống vững vàng hơn, để sống kiêu hãnh hơn, “Ta tận dụng hết các sắc màu/ Vẽ cho mọi người biếc xanh hi vọng/ Một đóa hồng không phai cho xuân thiếu nữ/ Một chàng trai tựa cửa/ Ôm cây đàn dạo liên khúc tình si”. Họ vẫn không ngừng mơ ước, không ngừng khát vọng, không ngừng tìm kiếm. “Tặng ai đó ước mơ!/ Tặng ai đó nụ cười!/ Tặng ai đó trái tim đỏ thắm!/ Ta yêu người/ Ta yêu ta! (Quà tặng của gió). Đàn bà giữa cuộc đời này thường được ví như là “Liễu”, lả lướt, yếu mềm. Tôi thì lại thấy, đàn bà chẳng khác tuyết tùng, một loại cây thân dẻo. Dẫu bão giông và tuyết có dập dùi, dẫu bao cây cao to quanh nó đều ngã đổ, chết khô. Tuyết tùng vẫn sừng sững, xanh tươi, “Ta đứng trên đỉnh vô ưu/ Để không thấy phận người đầy định mệnh/ Không còn ai chông chênh đơn lẻ/ Không còn ai lỡ những chuyến tàu” (Yêu phận của người). Nói đến sự dẻo dai, cang trường của kiếp má hồng, tôi chợt nhớ về những lời thơ đầy gai góc, đa mang mà cũng đầy kiêu hãnh của nhà văn Trầm Hương “Người đàn bà làm thơ/ Như bao bà mẹ tảo tần/ Lội trên cánh đồng chữ nghĩa/ Một tay bịt trái tim đau/ Tay kia lau nước mắt/ Tay bồng con tay viết sách/ Mà trải lòng. Mà phẫn nộ, đớn đau”. (Người đàn bà làm thơ).

Đó chính là sợi dây thần vô hình của thơ. Sức mạnh của nó là vô biên. Và nhà thơ, họ luôn ở đó, như những con ong quý không ngừng góp những giọt mật quý cho cuộc đời này. Ta không khỏi trân quý họ, những tài thơ cần mẫn, miệt mài.

“Người đàn bà buồn làm thơ

Những con chữ mang tiếng nhạn kêu sương trong khuya khắc khoải”

(Người đàn bà buồn)

Và, cũng thật đúng với quan niệm của chính chị “Thơ Là cứu cánh tâm hồn, cứu cánh nỗi đau, nỗi cô đơn tuyệt vọng, cứu cánh những khát vọng, những cái đẹp không vươn tới được, những nỗi buồn không tên…”. Thật vậy, khi hố lòng trống hoác, thơ chính là sự lấp đầy. Khi cõi lòng bi ai, thơ chính là ánh chiếu rọi. Thơ là vậy, huyền diệu và tinh tường. Nên, thơ phải là thứ được “rút ruột”, có vậy, thơ mới có thể chạm sâu và vĩnh hằng “Người đời sau/ Người nghìn sau/ Trăm năm còn thao thức/ Linh thiêng rụng một nốt trầm” (Linh thiêng rụng một nốt trầm).

Nhà thơ Xuân Diệu đã từng nói “Thơ là một sản phẩm của tâm hồn, trí tuệ con người mà tâm hồn và trí tuệ đó có một tác động trở lại vào thực tại... Thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đã đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ ấy phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay, thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu của những con người”. Trong trường hợp này, quan niệm đó thật phù hợp với tiếng thơ, tiếng lòng của nhà thơ Trúc Linh Lan biết bao.

Tôi cầm nụ cười trên tay
Tặng những ai buồn bã
Mà sao ai đó không vui?
Niềm vui xin đừng ngã giá!

Bóng hạnh phúc vô thường.

 (Tôi lừa dối tôi)

 Augustinô, một triết gia phương tây, đã nói “Hãy yêu thiệt nhiều đi, rồi bạn sẽ biết mình nên viết cái gì?”. Quả thực, với giọng thơ đầy sự thổn thức, khắc khoải như tiếng vọng của “nhạn kêu sương”, người đọc dễ nhận thấy ở nhà thơ một tình yêu sâu nặng dành cho cuộc đời, dành cho những kiếp nhân sinh bạc phần, bạc phận. Chị thực sự là nhà thơ của cõi lòng đàn bà giữa cuộc hồng trần, giữa cuộc bể dâu. Nỗi khát khao hạnh phúc, niềm tiếc thương hoài vọng, những trăn trở, ngậm ngùi… tất cả, tràn trong thơ chị bằng thi pháp trữ tình, kiểu diễn ngôn mượt mà và những liên tưởng độc đáo; bằng sự rung cảm, thành khẩn và bằng cả trí huệ.

Cần thơ, 2024

B.B

Bài viết liên quan

Xem thêm
Cái “ngông” của Nguyễn Công Trứ
Thượng Uy Viễn – Nguyễn Công Trứ là một hiện tượng đặc biệt trong thời kỳ trung đại. Đời ông đầy giai thoại, mà giai thoại nào cũng cho thấy bản lĩnh sống, trí tuệ, triết lý nhân văn sâu sắc nhưng cũng rất hóm hỉnh, bình dân…
Xem thêm
Hơi thở cuộc sống trong thơ Nguyễn Kim Thanh
Trong hành trình sáng tạo của mỗi nhà văn đến với văn chương thì “ngôn ngữ là yếu tố thứ nhất của văn học” để làm nên tác phẩm. Ngôn ngữ trong thơ (trữ tình), truyện (tự sự) và kịch (kịch bản văn học) đều có sự giống và khác nhau. Cùng với sự đam mê, năng khiếu, và “thiên phú” (trời cho) thì mỗi tác giả có sự thành công ở những thể loại khác nhau. Có người sáng tác thơ hay nhưng viết truyện lại dở và ngược lại có người viết truyện hay nhưng thơ thì không ra gì. Lại có người thành công ở nhiều thể loại: thơ, truyện, kịch, ký, lý luận phê bình. Nhà văn Nguyễn Kim Thanh là cây bút chuyên viết truyện ngắn, tiểu thuyết, tản văn, bút ký và đã xuất bản bốn tác phẩm văn xuôi. Nhưng nay chị lại “thử sức” sang thể loại thơ với tập thơ đầu tay “Giọt nước mắt thủy tinh” có 30 bài.
Xem thêm
Nỗi buồn chiến tranh - và cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường
Vừa qua, tiểu thuyết Nỗi buồn chiến tranh của nhà văn Bảo Ninh được Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch vinh danh là một trong 50 tác phẩm tiêu biểu của văn học Việt Nam 50 năm qua đã tạo nên nhiều tranh luận trái chiều. Nhiều ý kiến cũng đã đặt ra vấn đề là có nên đưa tác phẩm này vào sách giáo khoa Chương trình Giáo dục phổ thông 2018 hay không. Là những người đã từng học văn qua nhiều lần thay sách và là những người đang dạy môn văn nhiều năm trong nhà trường phổ thông, chúng tôi có một số suy nghĩ trong cách nhìn về việc đổi mới dạy học văn trong nhà trường về Nỗi buồn chiến tranh với tính chất là “những người trong cuộc”.
Xem thêm
Văn học đương đại Trung Quốc từ lăng kính các giải thưởng Hội Nhà văn (2015 - 2025)
Nhìn chung, hệ thống giải thưởng Hội Nhà văn Trung Quốc giai đoạn 2015 - 2025 đã làm nổi bật vai trò “điều hướng” và “chuẩn hóa” của mình trong việc thiết lập các tiêu chí thẩm mĩ, định hình phong cách sáng tác và thúc đẩy tương tác giữa văn học - học thuật - công chúng. Điều này cho thấy một mô hình văn học với định hướng chiến lược - kết hợp giữa nhu cầu nghệ thuật, định hướng chính sách và cơ chế truyền thông - đang ngày càng chiếm vị trí trung tâm trong đời sống văn hóa đương đại Trung Quốc.
Xem thêm
Chân dung tâm hồn của nhà thơ Nguyên Bình qua “Mật ngữ trắng đen”
“Mật ngữ trắng đen” (NXB Thuận Hóa, 2025) của nhà thơ Nguyên Bình, hội viên Hội Nhà văn TP.HCM, là một thế giới thi ca đầy suy tưởng, nơi ánh sáng và bóng tối, mộng mị và hiện thực, nỗi đau và niềm yêu thương luôn song hành, soi chiếu vào nhau. Tựa như cái tên Mật ngữ trắng đen, thơ Nguyên Bình gợi cảm giác về sự đối lập, nhưng không phải để phân định ranh giới thiện ác, buồn vui, mà để khai mở một cõi cảm xúc và nhận thức đa chiều về tình yêu, cuộc sống, con người. Ở mỗi bài thơ, tập thơ của anh đều ẩn chứa một lớp nghĩa nhân sinh sâu sắc.
Xem thêm
Quan điểm của Nguyễn Đình Chiểu đối với Phật giáo
Nguyễn Đình Chiểu (1822-1888) là một nhà Nho tuy đỗ đạt không cao nhưng cụ là một nhà Nho đức nghiệp, một con người trong ba tư cách: một nhà thơ, một thầy giáo và một thầy thuốc suốt đời vì dân vì nước.
Xem thêm
Thơ Nguyễn Bình Phương – Tiểu luận của Thiên Sơn
Việc làm thơ của Nguyễn Bình Phương như một sự bừng lóe của linh giác. Mỗi lần cầm bút viết là khám phá cái thế giới lạ lùng, huyền bí như thế giới của giấc mơ. Mà làm thơ, như anh, chính là đang theo đuổi những giấc mơ. Như bước vào một cảnh giới kỳ lạ, với cách nhìn, cảnh cảm và cách nghĩ khác, xa lạ với hầu hết mọi người.
Xem thêm
Văn học và dân tộc như một vấn đề học thuật
Kết nối ngôn ngữ, văn học với sự tồn tại một dân tộc đã là một thực hành phổ biến trong đời sống tri thức ở châu Âu từ nửa đầu thế kỉ XVIII. Một dân tộc là lí tưởng khi nó thống nhất tất cả những người nói cùng một ngôn ngữ trong một lãnh thổ chung, từ đó tạo thành một quốc gia - dân tộc. Văn học, với tư cách là hiện thân rõ ràng và lâu đời nhất của ngôn ngữ một dân tộc, có vai trò như là yếu tố ràng buộc và thống nhất. Nhà phê bình văn học Hoa Kì René Wellek viết: “Văn học vào thế kỉ XVIII bắt đầu được cảm thấy như là tài sản quốc gia, như là một sự thổ lộ tâm trí dân tộc, như là một phương tiện cho quá trình tự xác định của dân tộc”(1).
Xem thêm
Nhà văn Thomas Mann: Bậc thầy của mâu thuẫn
Xuất bản lần đầu vào năm 1924, Núi thần nhanh chóng trở thành cuốn sách bán chạy và được cho là tiểu thuyết tiếng Đức có ảnh hưởng bậc nhất thế kỉ 20. Nhưng ít ai biết nó được viết ra trong sự gián đoạn của chiến tranh và thay đổi của thời đại.
Xem thêm
“Những ngọn gió biên cương” - Khúc sử thi đi qua căn bếp có mùi nhang
Bài đăng trên Tạp chí Diễn đàn Văn nghệ Việt Nam, số 12/2025.
Xem thêm
Ngọn gió chiều thổi qua “Nắng dậy thì”
Dòng thời gian sáng, trưa, chiều, tối đã chảy vào văn thơ bao thời theo cách riêng và theo cái nhìn của mỗi người cầm bút. Nguyễn Ngọc Hạnh đã thả cách nhìn về phía thời gian qua những sáng tác của ông. Thâm nhập vào không gian thơ trong Nắng dậy thì*, bạn đọc sẽ nhận thấy cảm thức thời gian của một thi sĩ ở tuổi đang chiều.
Xem thêm
Văn chương Nobel và thông điệp nhân văn
“Không chỉ ngày nay loài người mới khốn khổ? Chúng ta luôn luôn khốn khổ. Sự khốn khổ gần như đã trở thành bản chất của con người (Osho, Chính trực, Phi Mai dịch, Nxb Lao động, 2022, tr.14). Thế giới ngày càng bất an, con người ngày càng mỏng mảnh. Sức chống cự của con người giảm thiểu trước quá nhiều biến động: chiến tranh, dịch bệnh, thiên tai; đứt gãy cộng đồng, sự đơn độc, cái chết. Vì con người, dòng văn học chấn thương ra đời. Cũng vì con người, xu hướng văn học chữa lành hình thành vào thế kỉ XXI.
Xem thêm
Những nét đẹp văn hóa truyền thống Việt Nam trong “Mùa lá rụng trong vườn” của Ma Văn Kháng
Trong hành trình trở về cội nguồn, Ma Văn Kháng đã dựng nên nhiều chân dung cao đẹp tiêu biểu cho truyền thống ân nghĩa thuỷ chung của dân tộc. Nhưng nổi bật giữa bản đồng ca trong trẻo ấy là nhân vật chị Hoài - một con người coi “cái tình, cái nghĩa” là quý nhất. Hình ảnh chị Hoài trở về thăm và ăn tết với gia đình chồng cũ vào chiều ba mươi tết đã gây xúc động lòng người, để lại nhiều tình cảm đẹp đẽ cho bao thế hệ độc giả.
Xem thêm
Đọc ‘Bão’ – Ánh sáng nhân tâm giữa cơn bão thời cuộc
Tiểu thuyết Bão của PGS.TS, nhà văn Nguyễn Đức Hạnh được nhà văn Phan Đình Minh tiếp cận trên cả ba phương diện: nội dung xã hội, nghệ thuật tự sự và chiều sâu nhân văn.
Xem thêm
Khơi thông điểm nghẽn, đổi mới tư duy và cơ chế để văn học nghệ thuật phát triển
Văn học nghệ thuật luôn giữ vị trí đặc biệt trong tiến trình phát triển của đất nước, là nền tảng tinh thần vững chắc cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Xem thêm
Hạt gạo tháng Giêng – Nỗi nhớ xuân từ những phòng trọ xa quê
Trong mạch thơ viết về mùa xuân, nhiều thi sĩ đã chọn gam màu tươi sáng, ăm ắp hội hè và sum họp. Nhưng với nhà thơ Xuân Trường, mùa xuân trong bài “Hạt gạo tháng Giêng” lại mang sắc điệu trầm buồn, thấm đẫm nỗi xa quê của những phận người lao động nghèo nơi đô thị.
Xem thêm
Hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ
Phú Thọ - Đất Tổ Vua Hùng là miền đất cội nguồn của dân tộc Việt Nam, là nơi gắn với tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương và nhiều di sản văn hoá đặc sắc. Bởi thế, hoạt động bảo tồn và phát huy giá trị văn hóa dân tộc trên quê hương Đất Tổ là việc làm hết sức có ý nghĩa, luôn được Đảng, chính quyền các cấp, đặc biệt là cấp tỉnh quan tâm.
Xem thêm
Tìm hiểu đặc trưng truyện ngắn Nam Cao dưới góc nhìn thi pháp hiện đại
Khi đọc truyện ngắn hiện đại, điều nhiều người quan tâm là yếu tố nào làm nên sự khác biệt giữa các tác giả. Thực ra không phải chỉ ở đề tài, chủ đề, nội dung tư tưởng, ngôn ngữ hay bố cục, kết cấu tác phẩm..., mà là ở giọng văn/giọng điệu mới chủ yếu làm nên sự khu biệt về phong cách tác giả.
Xem thêm