TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước

Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước

Người đăng : phunghieu
Ngày đăng: 2025-09-23 20:45:21
mail facebook google pos stwis
268 lượt xem

BẢO BÌNH

(Vanchuongthanhphohochiminh.vn) - Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.

Nhà thơ Trúc Linh Lan

Là vậy đó, khi ta sâu nặng với thế giới thi ca mới thấy hết cái hàm sâu ẩn chứa huyền diệu mà nó mang lại. Cái cẩn mật, biến hoá của ngôn từ thật là diễm tuyệt lắm thay! Và, Trúc Linh Lan - nhà thơ của đồng bằng - luôn trăn trở về muôn trùng nhân thế, buồn thương cho số phận đa đoan người đàn bà cùng những thăng trầm, đổi thay cuộc sống.

 “Một đời mẹ vất vả

Đi qua bao mùa đông

Đi qua nhiều cơn gió

Đi qua nhiều dòng sông

(Một ngày xin đừng đến)

Với đời, có lẽ thứ khiến chị đau đáu, suy tư vẫn là thân phận người đàn bà, kẻ hồng nhan giữa những đoạn trường của cuộc bể dâu. Vì lẽ đó, tiếng thơ chị khi trầm lắng, nỉ non; lúc bi ai, bất lực… đầy thương cảm. “Kiếp hường nhan lắm lao đao/ Luồn kim se chỉ nghẹn ngào tâm tư/ À ơi! ngọn gió “mùa thu…”/ Năm canh mẹ thức để ru đời mình” (Tiếng ru buồn), Chị đúng là nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước.

Khi đứng trước một tấm ảnh ở bảo tàng, cảm xúc trong chị rung lên, tràn dâng một sự đắng chát, nghèn nghẹn “Đập vào mắt tôi là một bàn chân/bàn chân lam lũ,nứt nẻ, sần sùi/ bàn chân của mẹ/đi suốt chiều dài chiến tranh”(ấn tượng từ một tấm ảnh ở bảo tàng Bến Tre). Nếu là bạn, bạn sẽ thế nào trong hoàn cảnh ấy? khi ngắm một bức ảnh? Thực ra, với nhà thơ, lúc đó không phải là một bức ảnh nữa, mà là cả một cuộc đời. Cuộc đời của một người đàn bà, và những người đàn bà bi đát, bất hạnh, khốn cùng bởi tội ác chiến tranh. Tất cả đang hiện ra, trải dài ra trước mắt chị. Điều đó khiến nhà thơ phẫn uất, đau xót và thương cảm.   

“Bàn tay mẹ gầy như nhánh lá kia

 Mùa đi qua mẹ nhớ thương bạc tóc

Hát bài ca của lá

Những đứa con đi mãi không về…”

(Lời hát của bà mẹ Kam-Pu-Chia)

Thơ không phải là thứ để dạy đời, để đánh tráo… nếu “cố rặn” thì thứ “rặn ra” chỉ là thứ giống với thơ thôi, tôi nghĩ vậy. Nên hơn hết, tôi chỉ có thể cảm được những gì được rung rẩy, thành khẩn từ tim từ óc của người thơ. Và ở đây, chính trong thơ Trúc Linh Lan, tôi đã nhìn thấy điều đó, cảm được điều đó, một trái tim thấm đẫm tình yêu thương dành cho kiếp người truân chuyên, lận đận. “Mẹ tần tảo, mẹ gian truân/ Một đời mưa nắng lưng chừng sắc hương/ Cánh cò chịu khó chịu thương/ Hai vai nặng gánh nhân thường đục-trong (Tiếng ru buồn). Chị cũng không quên dành cho phận hồng nhan bạc mệnh những ngậm ngùi “Tôi chạm vào em, giọt lệ hoàng phi/ Đêm sáng lửa đưa người về với Phật/ Ai rơi lệ xuống thuyền xuôi cố quốc! Gửi lại một thiên thần mang mệnh đế vương? (Chiều Mỹ Sơn). Với đàn bà khổ hạnh, kém phần may mắn, chị dành cho họ niềm cảm thương sâu sắc “Mẹ chồng hy sinh bỏ chị lại giữa đời/ con gởi cô bác, chị lao vào công tác/ đất nước và con-hai vai gánh vác/ lúc một mình chị cắn nát nỗi cô đơn” (Chị). Từ ngữ nhà thơ chọn dùng không quá trau chuốt, chẳng cần bóng bẩy; nhưng tinh tường, sắc sảo. Giọng thơ như lời ru, nhẹ nhàng mà chạm vào ta, thấm thía đến rát đau.

Chưa lần nhận miếng trầu say
Pháo hồng áo cưới – rủi may sang đò
Tình nồng còn ủ lớp tro
Bếp chưa bén lửa… đâu ngờ mưa rơi!

(Năm canh mẹ thức để ru đời mình)

Lứa đôi với những chuyện tình, những ngọt ngào, mất mát; những sum vầy, ly tan… luôn là nỗi niềm rách xước ở mỗi trái tim đi trong cuộc đời này. “Chưa lần nhận miếng trầu say” bước chân theo chồng khi trái tim chưa biết yêu là gì? Và rồi “Bếp chưa bén lửa” cái tình chưa kịp nồng sau buổi vu quy, thì trời nỡ “mưa rơi”. Thế là tắt lửa, đành một cuộc bi ai cho lần “sang đò” may rủi. “Đôi ta mới gặp đã lìa/ Trách ai bẻ khoá quăng chìa xa nhau” (Ca dao) xót xa nào bằng? Một tuổi xuân phơi phới, một khát vọng đầy tràn… phút chốc tan biến cõi không. Và làm sao mà không chơi vơi, hụt hẫng; không mơ ước, khát khao?“Biển xô dạt đời em/ Theo từng cơn sóng dữ/ Một chuỗi đời mệt mỏi/ Bồng bềnh trong cô đơn!/ Một vòng tay - một nụ hôn/ Em từng đêm khao khát/ Ước chi anh là con sông hát/ Đổ vào đời em yêu thương (Ước gì).

Bất chợt, tôi nhớ về những câu thơ của nhà thơ Phú Sĩ “Tôi muốn viết cho em/ Về câu chuyện nợ duyên không chỉ sắc màu hồng/ Đổ vỡ những niềm tin nào trách người bỏ lại/ Muộn phiền vẫn vây quanh đắng cay em nếm trải/ Vẫn như viên ngọc mài… rồi sẽ lại sáng trong”(Người đàn bà vẫn thế đợi yêu thương). Rõ là, đường nợ duyên của phận hường nhan mấy ai là bằng phẳng? nếu không phải “trâm gãy bình tan”,“Tro tàn bếp lạnh”, thì cũng là “quất ngựa truy phong”.

 Người đàn bà đã cũ

Trong trái tim người đàn ông bội bạc

Lâm râm thời gian trên màu tóc

Đa đoan cuộc đời trên mắt xưa

(Những ký âm tháng chín)

Tự hỏi, cuộc đời này, có bao “đàn bà” được “bạch đầu giai lão” trong hạnh phúc lứa đôi? Mỗi một thời đại, mỗi sự đổi thay, tốt dần lên hơn. Tuy vậy, đàn bà vẫn là thân phận mang nhiều nỗi thua thiệt, trái ngang, đau khổ. “Thời gian chừng như vô nghĩa/ Mẹ bạc đầu thức trắng những đêm thâu/ Cô gái nhà bên dù chẳng làm dâu/ Ngày giỗ anh vẫn sang nhà thắp hương lặng lẽ” (Nỗi nhớ của mẹ), nhà thơ ẩn dụ trong sự đồng dạng, miêu tả gợi cảm với đầy đủ màu sắc, âm thanh từ: “mái đầu bạc”, “tiếng bước chân cô gái nhà bên” đến “tiếng thắp hương”… rồi phủ kín không gian, phủ kín bóng người, từ đàn bà già đến đàn bà trẻ, một nỗi xót đau, tróng lạnh.

Có những buổi chiều

Ta buồn

Khi nhìn bóng mẹ ngã theo hoàng hôn

Tóc mù sương

Còng lưng gánh nỗi buồn ký ức

(Chiều)

Đôi lúc, người đọc sẽ bắt gặp chị làm thơ kiểu như đang tâm tình, nó nhẹ nhàng, bình dị nhưng lại chạm vào ta bởi sự chân thiệt sâu sắc nơi lòng “Chuyện cổ tích ngày xưa! Ai khóa kín khu vườn?/ Bầy con lớn lên đứa còn, đứa mất…/ Ba đã trăm năm chuyến đi xa khuất/ Thương má một mình thắp bóng trăng xưa” (Thương má một mình thắp bóng trăng xưa). Những người mẹ, người vợ, những người đàn bà vùng sông nước đồng bằng, yêu chồng thương con. Chẳng màng vất vả. Chẳng màng thanh xuân, “Xanh ngắt màu lá tôi giấu trong chồng thư cũ/ Vô tình gió mở/ Giật mình!/ Xanh đã tàn phai”(Sắc thu phai). Cả một đời, khi bình yên, họ sống vì gia đình; khi ngoại bang xâm lấn, họ sống cho nước nhà. Trái tim họ luôn tím ngát thuỷ chung như giàn hoa cát đằng nở rộ “Giặc càn về máu đỏ nhuộm sông/ Mẹ hy sinh đêm đánh tàu biệt kích/ Trong vòng tay cô bác/ Đưa mẹ về bên giàn cát đằng nở tím thuỷ chung” (Câu chuyện bên dòng Xà No).

Nhà thơ Trần Hữu Dũng như tặng đời nỗi cô đơn, khắc khoải “Ta về mỏi cánh chuồn chuồn/ vô tình chạm phải mùi hương năm nào (Truông gió), thì Trúc Linh Lan cảm thán trong bóng đêm mờ mịt, thiếu hơi người thương “Đêm mất điện tôi ngồi trong bóng tối/ Đen như giọt cà phê đắng buổi chiều buồn/ Thắp ngọn nến nhớ tay người bật lửa/ Một thuở nào… gợi chút bâng khuâng” (Thắp lửa), có phải nhà thơ đang bật lửa? Để sáng lên cái tăm tối của bóng đêm? để ấm lên cõi lòng giá buốt? Ta như nghe được cái lạnh lẽo từ sự tróng vắng của căn nhà đến nỗi tróng lạnh ở trong tâm người đàn bà sớm goá bụa. Một nỗi buồn nhớ, cam đành đến xót xa, quặn thắt “Bây giờ giấu mình trong căn gác tối om/ Cầm trên tay cây nến còn một nửa/ Tự bật quẹt thắp cho mình ngọn lửa/ Sao nghe lòng lạnh lẽo cô đơn?” (Thắp lửa).

Giọng thơ của chị là giọng nói bên trong của không ít số phận người đàn bà. Trước những suy tư, thấu cảm trong tiếng thơ của chị, đôi lúc tôi thấy ám ảnh, bởi nó thật quá, và cũng đau đớn, xót xa quá: “Đi qua ngày/ Khu vườn lạnh tanh hâm hao cơn khát nước/ Mặt trời cười trôi ngược/ Tôi tự nhận ra mình đang đứng ở cuối đông. (Vô thường). Sẽ có không ít người đàn bà bắt gặp bóng hình mình nơi thơ chị. Ngậm ngùi, chua chát.

Trực giác của chị là phần hoà hợp đến thăng hoa của ý thức và tiềm thức, của lý trí và bản năng, của kinh nghiệm sống và nỗi niềm trắc ẩn… và vì lẽ đó, thơ chị bên cạnh vẻ đẹp của ngôn từ, là sự tuôn đầy những khắc khoải, yêu thương, trầm mặc “Chiếc lá xanh em giữ lại cho mình/Vàng mùa thu đi rất khẽ” (Sắc thu phai). Bên cạnh những mới lạ, độc đáo, tinh tế của diễn ngôn, là sự khai thác mọi góc cạnh của đời sống con người, đăc biệt là phận đàn bà, phận hường nhan truân chuyên. Từ cõi thực đến cõi tâm linh, chị đều dành cho họ tình yêu thương, sự trân quý cùng nỗi niềm hoài vọng, tiếc thương.    

Ta chạm vào em. Nỗi buồn nghìn năm trước

Trên từng bức tượng nun dấu tích mấy vương triều

Sự huyền dịu lung linh những bàn tay múa

Từ nụ cười ẩn dấu nét bi thương

(Chiều Mỹ Sơn)

Với đời thường, cùng những gập gềnh, cheo leo, đỉnh dốc… nhà thơ vẫn cố gắng tìm lấy niềm vui sống. Là chị động viên chính mình? Hay động viên những bóng liễu, những tóc dài phận hẩm cõi trần gian này?

Tôi luôn mang theo nụ cười
Mặc dù cuộc đời chẳng mấy niềm vui
Tôi mặc cả hồn nhiên
Cho trái tim ngậm ngùi.
Tôi thấy hình như mình đang leo dốc,
Đỉnh núi mờ xa

(Tôi lừa dối tôi)

Chị không bị khuất phục, dù “Đỉnh núi mờ xa”, và chị mong muốn mọi đàn bà quanh chị cũng đừng khuất phục. Dẫu đôi lúc đó là sự lừa dối chính mình, chị vẫn muốn có sức mạnh để vượt qua tất cả. Và những ai yêu thơ Trúc Linh Lan, bên cạnh nỗi buồn man mác, họ sẽ biết cách tự vỗ về, tự an ủi… để sống vững vàng hơn, để sống kiêu hãnh hơn, “Ta tận dụng hết các sắc màu/ Vẽ cho mọi người biếc xanh hi vọng/ Một đóa hồng không phai cho xuân thiếu nữ/ Một chàng trai tựa cửa/ Ôm cây đàn dạo liên khúc tình si”. Họ vẫn không ngừng mơ ước, không ngừng khát vọng, không ngừng tìm kiếm. “Tặng ai đó ước mơ!/ Tặng ai đó nụ cười!/ Tặng ai đó trái tim đỏ thắm!/ Ta yêu người/ Ta yêu ta! (Quà tặng của gió). Đàn bà giữa cuộc đời này thường được ví như là “Liễu”, lả lướt, yếu mềm. Tôi thì lại thấy, đàn bà chẳng khác tuyết tùng, một loại cây thân dẻo. Dẫu bão giông và tuyết có dập dùi, dẫu bao cây cao to quanh nó đều ngã đổ, chết khô. Tuyết tùng vẫn sừng sững, xanh tươi, “Ta đứng trên đỉnh vô ưu/ Để không thấy phận người đầy định mệnh/ Không còn ai chông chênh đơn lẻ/ Không còn ai lỡ những chuyến tàu” (Yêu phận của người). Nói đến sự dẻo dai, cang trường của kiếp má hồng, tôi chợt nhớ về những lời thơ đầy gai góc, đa mang mà cũng đầy kiêu hãnh của nhà văn Trầm Hương “Người đàn bà làm thơ/ Như bao bà mẹ tảo tần/ Lội trên cánh đồng chữ nghĩa/ Một tay bịt trái tim đau/ Tay kia lau nước mắt/ Tay bồng con tay viết sách/ Mà trải lòng. Mà phẫn nộ, đớn đau”. (Người đàn bà làm thơ).

Đó chính là sợi dây thần vô hình của thơ. Sức mạnh của nó là vô biên. Và nhà thơ, họ luôn ở đó, như những con ong quý không ngừng góp những giọt mật quý cho cuộc đời này. Ta không khỏi trân quý họ, những tài thơ cần mẫn, miệt mài.

“Người đàn bà buồn làm thơ

Những con chữ mang tiếng nhạn kêu sương trong khuya khắc khoải”

(Người đàn bà buồn)

Và, cũng thật đúng với quan niệm của chính chị “Thơ Là cứu cánh tâm hồn, cứu cánh nỗi đau, nỗi cô đơn tuyệt vọng, cứu cánh những khát vọng, những cái đẹp không vươn tới được, những nỗi buồn không tên…”. Thật vậy, khi hố lòng trống hoác, thơ chính là sự lấp đầy. Khi cõi lòng bi ai, thơ chính là ánh chiếu rọi. Thơ là vậy, huyền diệu và tinh tường. Nên, thơ phải là thứ được “rút ruột”, có vậy, thơ mới có thể chạm sâu và vĩnh hằng “Người đời sau/ Người nghìn sau/ Trăm năm còn thao thức/ Linh thiêng rụng một nốt trầm” (Linh thiêng rụng một nốt trầm).

Nhà thơ Xuân Diệu đã từng nói “Thơ là một sản phẩm của tâm hồn, trí tuệ con người mà tâm hồn và trí tuệ đó có một tác động trở lại vào thực tại... Thơ phải xuất phát từ thực tại, từ đời sống, nhưng phải đi qua một tâm hồn, một trí tuệ và khi đã đi qua như vậy, tâm hồn, trí tuệ ấy phải in dấu vào đó thật sâu sắc, càng cá thể, càng độc đáo, càng hay, thơ là tiếng gọi đàn, là sự đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu của những con người”. Trong trường hợp này, quan niệm đó thật phù hợp với tiếng thơ, tiếng lòng của nhà thơ Trúc Linh Lan biết bao.

Tôi cầm nụ cười trên tay
Tặng những ai buồn bã
Mà sao ai đó không vui?
Niềm vui xin đừng ngã giá!

Bóng hạnh phúc vô thường.

 (Tôi lừa dối tôi)

 Augustinô, một triết gia phương tây, đã nói “Hãy yêu thiệt nhiều đi, rồi bạn sẽ biết mình nên viết cái gì?”. Quả thực, với giọng thơ đầy sự thổn thức, khắc khoải như tiếng vọng của “nhạn kêu sương”, người đọc dễ nhận thấy ở nhà thơ một tình yêu sâu nặng dành cho cuộc đời, dành cho những kiếp nhân sinh bạc phần, bạc phận. Chị thực sự là nhà thơ của cõi lòng đàn bà giữa cuộc hồng trần, giữa cuộc bể dâu. Nỗi khát khao hạnh phúc, niềm tiếc thương hoài vọng, những trăn trở, ngậm ngùi… tất cả, tràn trong thơ chị bằng thi pháp trữ tình, kiểu diễn ngôn mượt mà và những liên tưởng độc đáo; bằng sự rung cảm, thành khẩn và bằng cả trí huệ.

Cần thơ, 2024

B.B

Bài viết liên quan

Xem thêm
Chất liệu dân gian trong ca khúc Việt Nam hiện đại
Bài viết này xin phép được tiếp tục trình bày một xu hướng vận động chủ đạo của âm nhạc dân gian truyền thống Việt Nam sau 1975: dân tộc hóa ca khúc Việt Nam.
Xem thêm
Đọc thơ Thiên Di
Dường như là một giấc mơ chậm rãi, dịu dàng, vẫn đọng lại dư âm của cô đơn, khao khát và hy vọng. Tác giả sử dụng nhịp điệu từ những chi tiết nhỏ – mưa rả rích, ánh mắt, cánh hoa – để cảm xúc lan tỏa, khiến độc giả không cần lạm dụng từ ngữ hoa mỹ vẫn cảm nhận được sự mềm mại, tinh tế và ám ảnh.
Xem thêm
Triệu Kim Loan - Khúc độc thoại xanh của hồng gai
Bài viết sâu sắc dưới đây của nhà văn Kao Sơn dành cho buổi ra mắt sách Chữ gọi mùa trăng - Tập thơ thứ 7 đánh dấu chặng đường chín muồi của nhà thơ Triệu Kim Loan
Xem thêm
Quan niệm của Xuân Diệu về thơ từ những câu chuyện đời thường
Sinh thời, theo thống kê của Mã Giáng Lân, thi sĩ Xuân Diệu đã có hơn 500 buổi bình thơ trước công chúng. Đây là hoạt động nghệ thuật mà hiếm có nhà thơ, nhà văn nào ở Việt Nam và cả trên thế giới có thể sánh được. Không chỉ trong nước, chính “ông Hoàng thơ tình” Xuân Diệu đã có công quảng bá thi ca Việt Nam ra thế giới, giúp độc giả nước ngoài biết đến Nguyễn Du, Nguyễn Trãi, Tú Xương, Hồ Xuân Hương…
Xem thêm
Hành trình nước - Bước chuyển mình của kẻ sĩ chu du
Với Hành trình nước, Vũ Mai Phong cho phép người đọc thám hiểm một cõi tâm hồn mình, để chiêm nghiệm, để cảm nhận sự chuyển hóa kỳ diệu của nước - từ giọt sương nhỏ bé hóa thành đại dương bao la, từ tâm hồn cá nhân hòa vào tính thiêng của Tổ quốc.
Xem thêm
Gió Phương Nam 4 - Những lời thơ chân thực
Trang thơ “Gió Phương Nam 4” dễ dàng gợi lại những bước chân đồng đội năm xưa – bước chân thời chiến, bước chân thời bình, mang theo niềm vui, nỗi nhớ và cả những nỗi buồn sâu lắng.
Xem thêm
“Bến nước kinh Cùng” - Bến đợi của ký ức và tình người…
“Giữa bao vội vã, còn mấy ai lắng lòng với những phận người quê mộc mạc?” - Chính từ trăn trở ấy, “Bến nước kinh Cùng” của nhà văn Nguyễn Lập Em được tìm đến như một lời nhắc nhở tha thiết, đưa ta trở về với đất và người Nam Bộ, nơi tình quê và tình người thấm đẫm trong từng trang viết.
Xem thêm
Người thơ xứ Quảng: “Ảo hương lãng đãng bên trời cũ”
Nhà thơ Xuân Trường - tên thật Nguyễn Trường - là một tâm hồn phiêu bạt. Ông sinh ngày 12/12/1949 (theo giấy khai sinh) nhưng thực tế là năm 1945 (tuổi Ất Dậu), tại xã Đại Phong, huyện Đại Lộc, tỉnh Quảng Nam.
Xem thêm
Nước sông Sa Lung chưng cất bầu rượu thơ
Nhà thơ Nguyễn Hữu Thắng lớn lên bên dòng sông Sa Lung xanh trong. Có phải dòng sông Sa Lung là dòng sông thơ ca của đất Rồng - Vĩnh Long?. Tuổi thơ anh vô tư ngụp lặn vẫy vùng bơi lội tắm mát trong dòng sông ấy, nên anh rất yêu thơ, tập tành sáng tác thơ và thành công thơ khá sớm.
Xem thêm
Cung ngà xưa – Tiếng vọng ký ức trong miền tiếp nhận hôm nay
Đặt trong bối cảnh văn hóa, “cung ngà” còn gợi đến truyền thống âm nhạc dân tộc, nơi tiếng đàn, tiếng sáo từng là phương tiện gắn kết cộng đồng. Người miền Trung – đặc biệt là Huế và xứ Quảng – vốn sống trong không gian khắc nghiệt, thường tìm đến âm nhạc như một nơi trú ngụ tinh thần. Vì vậy, bài thơ không chỉ là ký ức cá nhân, mà còn mang dấu vết của ký ức tập thể.
Xem thêm
“Công chúa Ngọc Anh – bể khổ kiếp nhân sinh”
Văn học lịch sử vốn được xem là mảng khó viết bởi vừa đảm bảo tính chính xác vừa phải tạo được tính hấp dẫn lôi cuốn. Người viết văn học lịch sử không thể xuyên tạc, tô vẽ hay làm méo mó đi nội dung câu chuyện. Chính vì khó viết nên văn học lịch sử luôn là đề tài thu hút nhiều người đọc, bởi đó là cơ hội để người đọc và người sáng tác chiêm nghiệm lại quá khứ, suy ngẫm về tương lai, trăn trở về những hưng thịnh của thời đại, là một dòng chảy làm tái sinh những giai thoại dựa trên sự kiện lịch sử. Người viết văn học lịch sử là người phục dựng lại những bí ẩn còn chìm sâu trong bức màn thời gian, làm sáng tỏ những giá trị nghệ thuật mang tính truyền thống hay tín ngưỡng.
Xem thêm
Nhẹ nhàng bài ca cuộc sống nơi “Những cơn mưa thu” của Thanh Tám
Thanh Tám, Hội viên Hội Văn học nghệ thuật Lai Châu là cây viết truyện ngắn khá quen thuộc với bạn đọc. Một số truyện ngắn của Thanh Tám đã được đăng tải trên các trang báo sang trọng Báo Văn nghệ, Trang báo điện tử Vanvn.vn của Hội Nhà văn Việt Nam. Một trong những truyện ngắn của em, tôi tin rằng nhiều người thiện cảm, đó là truyện ngắn Những cơn mưa thu. Một câu chuyện gọn gàng, xinh xắn, gợi trong lòng độc giả những ấm áp, yêu thương như giọng văn nhẹ nhàng, truyền cảm của tác giả vậy.
Xem thêm
Tượng đài một anh hùng
Trường ca Tiếng chim rừng và đất lửa Tây Ninh (NXB Quân đội nhân dân, 2025) của tác giả Châu La Việt đã kiến tạo thành công nhiều biểu tượng về cuộc kháng chiến chống Mỹ một cách hệ thống, đa dạng về cấu trúc, sâu sắc về ý nghĩa, giàu có về tín hiệu thẩm mỹ.
Xem thêm
Cô gái Quảng Trị với nồng cay tiêu Cùa
Đọc 14 bài bút ký của nữ nhà báo Đào Khoa Thư, trong tập bút ký “Mùa bình thường” in chung với nhà báo Đào Tâm Thanh, do Nxb Thuận Hóa ấn hành tháng 7 năm 2025, tôi thật sự khâm phục cách viết khoáng hoạt của cô gái trẻ. Không gian được đề cập là mảnh đất quê nhà thân thương và những đất nước mà cô đặt chân đến để học tập, công tác, giao lưu, trải nghiệm. Lời văn tươi mới tràn đầy cảm xúc, lối viết chân thực, cởi mở, ngắn gọn cho ta thấy bao điều mới mẻ. Đọc lần lượt từng bài bút ký, thật thích thú với bao điều hấp dẫn qua từng câu chuyện kể về cuộc sống đời thường và các sự kiện diễn ra rất bổ ích.
Xem thêm
Đọc thơ Phương Viên – Ba khúc tình, rụng và gặp gỡ
Bằng giọng văn tinh tế, giàu cảm xúc và với kiến văn sâu rộng, tác giả đã khẳng định: thơ Phương Viên là nơi “chữ rụng mà hồn nở hoa”, một giọng thơ biết lặng đi để người đọc còn nghe tiếng của yêu thương và hồi sinh. Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết này tới bạn đọc.
Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm