TIN TỨC

Văn hóa công trình

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2025-09-02 18:27:12
mail facebook google pos stwis
99 lượt xem

Bài viết khẳng định đóng góp của Giáo sư, Tiến sĩ Lương Phương Hậu – nhà giáo, nhà khoa học ngành cảng‑đường thủy – trong việc biến các công trình giao thông ven biển trở thành trải nghiệm văn hóa thiết thực. Bên cạnh việc đào tạo hàng trăm sinh viên và nghiên cứu sinh tiến sĩ, thầy còn trực tiếp khảo sát thực địa, chủ trì thiết kế và chỉ đạo thi công, giúp người dân tránh được thiên tai xói lở. Qua đó, ông kết hợp triết lý và thực hành để tạo ra những công trình bền vững, hiệu quả, thân thiện với môi trường – biểu tượng cho sự giao hòa giữa kỹ thuật và tự nhiên, giữa khoa học và văn hóa.
 

Bút ký của LÊ THANH HUỆ

Năm 1996, Phó giáo sư tiến sỹ Lương Phương Hậu là người đầu tiên được phong hàm giáo sư của ngành cảng – đường thủy Việt Nam. Ngoài công việc chính: đào tạo sinh viên, hướng dẫn nghiên cứu sinh tiến sỹ; nghiên cứu lý thuyết, viết giáo trình, tham gia viết quy trình… thầy Hậu còn lặn lội nhiều vùng đất nước để biến các đề tài khoa học của mình thành công trình thực tiễn từ giai đoạn khảo sát, chủ trì lập thiết kế và trực tiếp chỉ đạo thi công; giúp người dân bản địa tránh được đại họa xói lở do nước sông, sóng biển. Từ đó, giáo sư tổng kết và miệt mài quay lại nghiên cứu lý thuyết; tạo thành một vòng tròn. Giống như giọt nước rơi xuống luôn còn có khả năng bay lên thành mây để quay về theo tiếng gọi của tự nhiên. Đi dọc bờ biển khảo sát phục vụ các đề tài khoa học và các công trình, thầy phát hiện Truyện Kiều có 3 254 câu, gần bằng chiều dài bờ biển từ Móng Cái (biển Đông) đến Hà Tiên (biển Tây) dài 3 260km, tạo thành chữ V mềm mại, vươn cao, biểu tượng chiến thắng. Trên bờ biển đó, 6 giờ triều lên 8 giờ triều xuống đúng bằng số từ câu thơ lục bát. Hình như thuận với tự nhiên nên Truyện Kiều, thể thơ lục bát tồn tại cùng thời gian. Thầy dùng sự trùng hợp đó để khuyên học sinh của mình hiểu rõ tự nhiên, trong đó có cư dân bản địa nhằm thiết kế công trình thân thiện với môi trường, gọi là thuận với tự nhiên khu vực xây dựng; công trình sẽ có giá thành rẽ và vững bền, phục vụ con người, dần trở thành bộ phận văn hóa của cư dân bản địa, nên tồn tại lâu dài với thời gian...

Thứ bảy ngày 19/10/2013, gặp mặt sau 30 năm ra trường của Lớp 23 cảng, khoa Cảng – đường thủy, trường Đại học xây dựng Hà Nội do thầy Lương Phương Hậu chủ nhiệm được tổ chức tưng bừng ở Hà Nội. Giáo sư tiến sỹ Lương Phương Hậu sinh ngày 11/7/1940, tính đến hôm đó đã bước qua tuổi 74 nhưng hầu như chúng tôi không biết thầy vẫn lặn lội với các đề tài nghiên cứu, khảo sát, chủ trì thiết kế và chỉ đạo thi công nhiều công trình. Lớp chỉ biết có 2 người đứng ra tổ chức là bạn Nguyễn Trung Sỹ - nguyên Cục trưởng Cục quản lý xây dựng giao thông và bạn Nguyễn Việt Tiến – nguyên Vụ Trưởng Vụ Pháp chế thanh tra, Tổng cục Phòng chống thiên tai. Thực ra năm 2012, tôi được thầy yêu cầu cung cấp ảnh thời sinh viên, ảnh hoạt động công tác, địa chỉ, số điện thoại… các bạn mà tôi biết. Thầy tập hợp thành danh sách gần như cuốn kỷ yếu của lớp, tự tay làm trình chiếu (slide) công phu dài 121 trang là hình ảnh và lịch sử trường, lớp; gần đủ các bạn trong lớp; kèm tóm tắt với các thông tin, công việc; đặc biệt là những thành tích.

Trong buổi liên hoan, Tiến nói với tôi: “Khi thầy hướng dẫn mình làm tiến sỹ, thầy thẳng thắn: “Nếu em làm không đạt, thầy đánh rớt em!”.

Tiến sỹ Lê Văn Chất, Nguyên Tổng giám đốc, hiện đang là Chủ tịch Hội đồng quản trị công ty cổ phần tư vấn xây dựng y tế nói với chúng tôi: “Thầy Hậu tạo ra bộ sách ngành chỉnh trị sông và bảo vệ bờ biển. Nhiều địa phương mình đến, đều xác nhận các dự án được thầy góp trí tuệ tạo ra công trình: rẻ, hiệu quả cao, bền, đẹp, phục vụ dân sinh” – gọi là văn hóa công trình.

Giáo sư, tiến sỹ Lương Phương Hậu có một sự nghiệp khoa học đáng trân trọng: đào tạo 37 khoá (gần ngàn sinh viên); thầy đã hướng dẫn và đồng hướng dẫn bảo vệ thành công luận án cho 15 nghiên cứu sinh thạc sỹ và 18 nghiên cứu sinh tiến sỹ. Trong số đó, nhiều người đã trở thành nhà khoa học đầu ngành, giáo sư, phó giáo sư, các lãnh đạo chủ chốt tại các cơ quan, tổ chức, cục, vụ, viện, các doanh nghiệp.

Do lúc đó, Tiến là giám đốc công ty tư vấn thiết kế nên tôi kể 2 kỷ niệm liên quan đến thầy và nghề nghiệp:

Tôi tình cờ đọc bài báo “Bàn về mực nước thiết kế và an toàn của công trình ven biển – tác giả giáo sư tiến sỹ Lương Phương Hậu” đăng ở Tạp chí Khoa học kỹ thuật Thủy lợi và Môi trường - Đại học Thủy Lợi, số 7, tháng 11/2004. Bài báo đưa ra luận cứ khoa học: các yếu tố bất lợi không thể xảy ra đồng thời như bão, lũ, núi lữa, động đất, sóng thần, triều cường… nếu có, sác xuất xảy ra đồng thời gần như bằng không. Thầy dẫn dắt đến việc tính toán cao độ cảng Chân Mây là khoa học và mang tính chất thực tiễn cao. Bài báo đã chấm dứt loạt bài phản bác nhau sôi nỗi trên các báo của các khoa học gia lúc đó. Đó là lần tôi thực sự nâng cao kiến thức về tải trọng tác động đến công trình sau 20 năm làm công tác thiết kế.

Năm 2005, thầy đến thăm gia đình tôi lúc đó đang ở thị xã Tân An, tỉnh Long An trong ngôi nhà cấp 4 lợp tôn fibroximăng giữa trưa hè nóng bức. Nhìn chiếc ty vi Sony cũ mua bằng giải thưởng truyện ngắn “Tìm cha” được dựng thành phim và chiếc xe Honda Cub đời 81 mua bằng tiền nhuận bút viết báo, viết sách; thầy hỏi thăm, vợ tôi thật thà cho thầy biết, dãy nhà lá trước đây được Nhà nước hóa giá 150 000 đồng/căn, đất rộng 107m2, xây lại, căn nhà rộng 24m2 cũng bằng tiền nhuận bút. Thầy nỗi giận:

- Học giỏi làm gì, làm đến phó giám đốc công ty tư vấn giao thông để làm gì, viết sách viết báo để làm gì trong khi để vợ con khổ sở.

Gia đình tôi mời thầy dùng bữa cơm tại quán Nhà lá, thầy nghẹn lời: “Cho thầy về, thầy không nuốt nỗi đâu”.

Sau này tôi biết, thầy dùng quen biết vào việc nhờ giúp đỡ và tạo điều kiện cho những học trò có đạo đức, năng lực được đến nơi làm tốt công tác chuyên môn, cống hiến được nhiều hơn.


Giáo sư Lương Phương Hậu (bìa trái) tác giả Lê Thanh Huệ.

Theo quy luật nước chảy từ cao xuống thấp, thầy biết rõ hoàn cảnh chúng tôi và thường lặng lẽ trợ giúp; còn chúng tôi lại chỉ nhớ đến hình ảnh của thầy dạy môn Điều chỉnh lòng sông vào học kỳ 1 năm thứ tư. Thầy nhập môn bằng câu ca dao “Bên lở, lở mãi, bên bồi bồi thêm”. Thầy vẽ ra đoạn khúc sông cong, cứ cong mãi cho đến khi thắt eo và 2 đầu đoạn cong nối vào nhau thành khúc sông thẳng để lại một hồ tự nhiên hình gần như bán nguyệt. Thầy nói, sở dĩ sông luôn cong là do với hình dạng cong mới đưa được nhiều nước ra biển. Ở đời, thẳng tuột, công việc hoàn thành nhưng khó khăn tăng lên do phải nổ lực lớn thắng sức cản tăng lên. Thầy giải thích thêm: những hiện tượng mưa lũ, sóng gió… đều có lợi cho tự nhiên và trở thành cực đoan trong mắt loài người từ khi biết xây dựng các công trình đồ sộ không thuận theo tự nhiên. Dòng sông, bờ biển không phải là món quà biếu không của tự nhiên. Trong 4 đại họa của loài người: thủy, hỏa, đạo, tặc thì thủy tai đứng đầu. Chỉnh trị sông là môn  khoa học  nghiên cứu các giải pháp công trình để hưởng lợi và trừ hại, đáp ứng các nhu cầu cuộc sống con người.

Cũng như các diễn viên xiếc dạy thú dữ làm trò giải trí trong rạp xiếc; nếu không có cách dạy khoa học thuần phục được thú, bắt nó nghe lời làm trò mà chọc tức nó, con thú sẽ trả thù con người một cách tàn bạo. Đó là điều tồi tệ đã từng xẩy ra không ít trong thực tế. Khoa học chỉnh trị sông chính là bảo bối để con người chinh phục hiệu quả dòng sông, bảo vệ bờ biển… Do tầm quan trọng: liên quan đến an ninh quốc gia, bảo đảm an toàn tính mạng cho số đông (hàng ngàn, vạn) dân cư và tài sản, yêu cầu phải gắn khoa học với thực tiễn bao gồm cả tự nhiên và dân cư để giải quyết tốt quan hệ giữa đối tượng chỉnh trị (không gian bố trí công trình) và đối tượng tác động (lòng dẫn hay dòng chảy).

Thầy sử dụng hình ảnh, các câu chuyện, thơ ca để minh họa… dù môn khó, các công thức chủ yếu ở dạng vi phân (phải dựa cả vào diễn biến hình dạng lòng sông, bờ biển qua nhiều năm để đoán xu hướng thay đổi của nó mới điều chỉnh được theo ý con người) trở nên hấp dẫn... Nhờ đó, tôi yêu thích môn học và được thầy cho điểm 9 về môn này. Bây giờ gọi là môn học Chỉnh trị sông và bảo vệ bờ biển...

Những năm qua, do chính sách mở cửa của Đảng, ngoài giảng dạy ở trường ra thầy còn lặn lội khắp mọi miền đất nước, liên hệ với các cơ quan nghiên cứu, tư vấn… trực tiếp tham gia thực hiện nhiều dự án công trình thủy lợi, Cảng - đường thủy, nhất là công trình chỉnh trị sông và bảo vệ bờ biển là chuyên ngành sâu của thầy. Trong bài viết này, tôi chỉ đề cập đến vài công trình thầy chủ trì thiết kế năm 1993, lúc thầy ở tuổi 54.

***

Đoạn đê Quản Xá nằm dọc theo bờ lõm của khúc cong sông Chu trước khi hợp lưu với sông Mã. Bên phải có núi Đọ nổi tiếng với nền văn minh Đông Sơn rực rỡ. Bên trái là tuyến đê bảo vệ cả một vùng dân cư và đất đai khu vực giữa sông Chu và sông Mã, trong đó có 16 xã của huyện Thiệu Hóa và Yên Định. Đoạn sông này cong gấp nhất trên toàn tuyến sông Chu, cản trở dòng chảy, nước ứ dềnh, ảnh hưởng đến việc thoát lũ. Dưới chân bờ sông dốc đứng có các hố sâu cục bộ do các dòng xoáy tạo ra. Đỉnh đê cao 25 mét, nước xô vào. Đến mùa lũ, hàng trăm người chực sẵn để hộ đê vẫn không chắc chắn tránh được hiểm họa đê vỡ.

Năm 1993, Thầy Lương Phương Hậu được Trung tâm phát triển công nghệ trường Đại học Thủy Lợi mời hợp tác thực hiện dự án; chủ đầu tư là sở thủy lợi Thanh Hóa.

Thầy Hậu phải mất một ngày vượt sông sang bờ phải, trèo lên núi Đọ nhìn bao quát đoạn sông, đi lên phía cầu Vạn Hà, đi xuống phía núi đá gần Cầu phao Vồm, đến ngã ba sông Mã; lấy ý kiến nhân dân trong vùng. Về đến Sở Thủy Lợi, trải rộng tấm bình đồ địa hình đoạn sông nghiên cứu, thầy vạch ra một nét cong vuốt thoải khúc cong gấp Quản Xá, thăm dò ý nghĩ của Chi Cục trưởng Đê điều Nguyễn Xuân Diệu và các thầy Đại học Thủy lợi.

- Cắt sông?!... - thầy Quyền bật kêu.

Thầy Hậu gật đầu. Thuật ngữ “cắt sông” có nghĩa cắt đoạn sông cong đưa dòng chảy đi hướng khác; một thủ thuật hiện đại nhưng nguy hiểm. Ngoài ra, để tiết kiệm kinh phí, phải xác định kích thước kênh mồi nhỏ nhất đủ tạo lưu lượng xói lòng kinh để nước tự đào tiếp thành đoạn sông thẳng.

Thầy Hậu đề xuất phương án chỉnh trị: tách tác nhân gây xói lở bờ uy hiếp đê điều ra khỏi mục tiêu bảo vệ, giải pháp chỉnh trị được xác định trên cơ sở đào kênh dẫn qua bãi Thiệu Tân nhằm cắt đoạn cong gấp, nắn lại tuyến sông Quản Xá. Nhiệm vụ của kênh dẫn sau khi phát triển ổn định phải thoát được 60% lưu lượng mùa lũ, loại bỏ hoàn toàn nguy cơ vỡ đoạn đê Quản Xá.

- Ở Việt Nam đã có địa phương nào cắt sông chưa? - Ông Diệu hỏi.

- Đã làm rồi, nhưng đều thất bại, vì kênh đào không phát triển được và bị bồi lấp ngay – thầy đề nghị - Đồ án tốt nghiệp Đại học của tôi là cắt đoạn sông cong Thái Điện trên sông Hán Giang và đã nghiên cứu trên mô hình vật lý, đồ án được các Giáo sư chấm điểm xuất sắc. Để tôi ứng dụng ở đây.

Tất cả mọi người im lặng.

Về đến Hà Nội, thầy Hậu trình bày phương án công trình cắt sông trước các chuyên gia Cục Đê điều. Tiếng xì xầm vang lên, các ý kiến phát biểu đều thống nhất phương án cắt sông mạo hiểm, đừng đùa với lũ, cứ kè chắc vào là xong. Vấn đề là dùng kè và các biện pháp chỉnh trị ít mạo hiểm, rất tốn kém đã được Sở Thủy lợi Thanh Hóa thực hiện không có hiệu quả. Do đó, buộc phải trình phương án cắt sông lên Bộ Thủy lợi.

Sau khi nghe thầy Hậu trình bày, Thứ trưởng Bộ Thủy lợi Phan Sỹ Kỳ, thận trọng:

- Thầy ơi, mạo hiểm đấy. Không chắc ăn, là gay go cho thầy! Thầy phải kí vào biên bản cuộc họp đảm bảo thành công mới quyết được.

- Thứ trưởng phải duyệt làm mô hình lòng động và mô hình lòng cứng mới tính được mức độ an toàn.

- Đồng ý – Thứ tưởng nhắc lại - vỡ đê; tai họa đỗ xuống dân 2 huyện. Phải rất chắc chắn mới làm.

Không có tính toán thử nghiệm nào cho ra kết quả sác xuất thành công 100%. Nó chỉ là trên 0% và dưới 100%. Do đó, chủ đề tài phải quyết đoán.

Thời gian đó, thầy Hậu đồng thời đang đảm nhiệm chủ trì thiết kế ba dự án lớn khác ở Nam Trung Bộ, Nam Bộ và dạy học. Có những tuần, thầy bay đi bay về giữa Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đến hai lần. Mô hình thí nghiệm vật lý xử lý đê Quản Xá được tiến hành tại Sân mô hình C6 của trường Đại học Xây Dựng, trong khuôn viên của Đại học Bách Khoa; hoạt động liên tục trong suốt hai tháng trời cho kịp trước mùa lũ đến. Ngày 29 tết Giáp Tý (1994), Sở Thủy lợi Thanh Hóa mang đặc sản nem chua và bia Thanh Hóa đến động viên các nhà khoa học. Làm việc liên tục, ê-kip thí nghiệm chỉ nghỉ tết có 3 ngày.

Thầy Hậu nhớ lại: khó nhất trong thiết kế là chọn được tuyến kênh cắt có chiều dài và độ cong hợp lý, để vừa đón được dòng chảy thượng lưu vào kênh một cách thuận lợi lại đưa dòng chảy về hạ lưu một cách êm thuận, không gây sạt lở hay bồi lấp lòng sông hạ lưu. Điều quan trọng không kém là chọn được một mặt cắt kênh có độ cao đáy hợp lý, có diện tích vừa nhỏ nhằm tiết kiệm khối lượng đào đất nhưng cũng đủ lớn để lưu lượng dẫn vào đủ sức gây xói, phát triển dần tuyến kênh trở thành sông chính.

 Sau hai tháng thí nghiệm hàng chục phương án bố trí công trình, cuối cùng các tác giả đã báo cáo kết quả nghiên cứu của mình. Theo đó, các tác giả đề xuất phương án  tuyến kênh mồi và mặt cắt kênh có chiều rộng 40m, đáy kênh ở cao trình -1,0m*, một mỏ hàn hướng dòng ở cửa vào và 5 mỏ hàn bảo vệ bờ ở hạ lưu cửa ra kênh dẫn. Thứ trưởng Phan Sĩ Kỳ xuống tận sân thí nghiệm kiểm tra và nghe báo cáo về phương án chọn. Ông duyệt phương án, cho thiết kế kỹ thuật, bản vẽ thi công ngay.

Công trình Cắt sông Quản Xá được thi công khẩn trương, hoàn thành vào giữa năm 1994. Đây là công trình cắt sông nhân tạo đầu tiên thành công ở Việt Nam. Sau mùa lũ năm 1995, công trình đã phát huy tác dụng, đạt những hiệu quả tích cực. Kết quả quan trắc, mùa lũ đầu tiên, 25% dòng chảy đi qua tuyến sông mới ở phía núi Đọ, an toàn cho người dân hai huyện. Công trình bảo vệ được tính mạng và tài sản của người dân 2 huyện lớn Đông Sơn và Triệu Sơn của tỉnh Thanh Hóa.

Ảnh chụp từ Googole Map đoạn sông Chu sau khi cắt dòng chống sạt đê Quản Xá.

15 năm sau, thầy Hậu mới có dịp về lại Quản Xá. Chân đê bồi đắp cao, cỏ mọc xanh rờn, trâu bò ung dung gặm cỏ. Khuôn mặt người dân trên đê không còn ưu tư khi lũ về. Bà con Quản Xá phơi rơm, rạ đầy mặt đê, đàn bò vàng ung dung gặm cỏ ở chân đê, từng đoàn thuyền nối nhau đi trên đoạn sông mới. Chỉ có một người đàn ông cao lớn, phúc hậu có nét mặt đăm chiêu đứng tần ngần nhớ lại những ngày gian khổ gần 30 năm trước...

Chân đê Quản xá sau 15 năm cắt sông Chu

Sau đó có rất nhiều công trình giáo sư được mời khảo sát, chủ trì thiết kế và chỉ đạo thi công.

***

Đầu năm 1993, trên đường công tác từ thành phố Hồ Chí Minh ra Nha Trang, thầy dừng chân tại Phan Rang. Trong bữa trưa với các đồng nghiệp, ông Trần Ngươn - Giám đốc Sở Thủy lợi tỉnh Ninh Thuận, (nay thuộc Khánh Hòa) kể về trận lũ quét làm bờ trái sông Cái Phan Rang sạt lở, chân đê có nguy cơ vỡ, uy hiếp tính mạng và tài sản của dân cư thị xã Phan Rang - Tháp Chàm, nhưng không có kinh phí để kè lại. Đê cao, thân đê hẹp, mái đê rất dốc, đất sụt khiến các bụi cây đổ ngả nghiêng ở chân đê trước mặt khu dân cư kín đặc nhà cửa. Về đến thành phố Hồ Chí Minh, thầy với trưởng phòng thiết kế Lê Ngọc Bích vẫn canh cánh câu hỏi làm sao bảo vệ được đê Phan Rang với kinh phí tiết kiệm nhất. Sau một đêm trằn trọc suy nghĩ, thầy nói với gọi Lê Ngọc Bích về ý tưởng kết cấu mới, đảo ngược các quá trình tự nhiên, tức là đẩy được dòng chảy mặt ra xa bờ lở, đồng thời kéo được bùn cát đáy quay về và bồi tụ lại cho bờ lở; tạm đặt tên kết cấu đảo chiều hoàn lưu. Ý tưởng táo bạo này được Giám đốc sở ủng hộ và ký hợp đồng tiến hành dự án.

Công trình đảo chiều hoàn lưu Phan Rang – Tháp Chàm khởi công ngày 04/8/1993. Công trường chỉ có một xà lan với một giá đóng cọc, chục công nhân của một đơn vị đường thủy làm việc. Chỉ sau 2 tháng, xây dựng xong 2 đoạn tường đóng bằng các cọc bê tông phía trên liên kết các tấm bản bê tông và phía dưới hở ra khi triều xuống như một hàng người mặc quần đùi đứng san sát nhau, tạo thành bẩy giữ cát, gây bồi; một nét vẽ mỏng manh trên mặt nước, không gây ấn tượng. Trẻ con trèo lên đỉnh cọc, chơi đùa, người lớn giặt giũ, tắm rửa nơi bệ đá gốc kè. Không có nghi lễ khởi công, hoàn công. Cư dân bản địa thờ ơ, chẳng hiểu làm những hàng rào bê tông này để làm gì.

Khe hở nằm dưới tấm bê tông hướng dòng tạo thành bẩy giữ lại cát, gây bồi.

Mùa lũ đến, hiệu quả công trình đã phát huy rõ rệt. Công trình Đảo chiều hoàn lưu trên bờ trái sông Cái Phan Rang đã bảo vệ cho an sinh thành phố Phan Trang Tháp Chàm với hơn 208 ngàn người, trong diện tích gần 80 km2.

Phóng viên báo Nhân Dân viết bài ca ngợi các tác giả dự án. Sự kiện này đã được các phương tiện báo đài, tạp chí đưa tin, làm mô hình triển lãm tại Hà Nội.

Nhiều đoàn ngoài nước đến tham quan, quay phim, chụp ảnh. 

Công trình đảo chiều hoàn lưu bờ trái sông Dinh đoạn qua phường Tấn Tài, sau 3 năm xây dựng .

Các nhà đầu tư chỉ quen áp dụng các quy trình, quy phạm đã có, họ e ngại ứng dụng công nghệ mới. Một số dự án có áp dụng công trình đảo chiều hoàn lưu đã bị từ chối, chỉ vì áp dụng kết cấu này dẫn đến dự án có tổng mức đầu tư quá thấp. Kết cấu đảo chiều hoàn lưu, không ai nhắc đến nữa. Trong khi thành công đặc biệt của công trình đảo chiều hoàn lưu, được chuyên gia nổi tiếng Hà Lan Pilarzyk khen ngợi.

15 năm sau (năm 2008), một đoàn khoa học Nhật Bản do Giáo sư, tiến sỹ Hosoda (đạt giải Nobel) đến thăm hiện trường công trình ở Phan Rang. Giáo sư Hosoda kinh ngạc về tác dụng của loại công trình này. Theo đánh giá của ông, kết cấu rẻ gấp chục lần công trình cùng loại, thi công dễ và nhanh, không cần thiết bị kỹ thuật cao nhưng có hiệu quả cao đến mức bất ngờ.

Mùa lũ năm 2008, xảy ra sự cố của công trình chỉnh trị sông Quảng Huế (Quảng Nam), các nhà thiết kế thủy lợi bị chỉ trích dữ dội do công trình kiên cố, tốn kém bị lũ phá tan tành. Năm 2009, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn giao cho Công ty Tư vấn và Chuyển giao công nghệ trường Đại học Thủy lợi thực hiện dự án với sự chủ trì của Phó giáo sư, tiến sỹ Nguyễn Phương Mậu. Giáo sư, tiến sỹ Lương Phương Hậu được mời làm cố vấn khoa học. Giáo sư Hậu cùng với các cán bộ Bộ môn Cảng - Đường Thủy trường Đại học Xây dựng quyết định sử dụng hệ thống công trình đảo chiều hoàn lưu để ổn định đoạn sông này và trực tiếp thực hiện các bản vẽ thiết kế, thi công với kinh phí xây dựng rất nhỏ so với lần trước và đã thành công. Kết cấu hoàn lưu đảo chiều minh chứng cho triết lý thiết kế thuận với tự nhiên sẽ cho hiệu quả cao, chi phí thấp và vững bền với thời gian.

Ngày 08/6/2010, Cục sở hữu trí tuệ bộ Khoa học công nghệ cấp bằng độc quyền sáng chế số 8518 cho sáng chế kết cấu đảo chiều hoàn lưu của giáo sư tiến sỹ Lương Phương Hậu.

Văn hóa công trình lúc bấy giờ đề cao các công trình có tổng mức đầu tư lớn, ổn định vừa phải để được cấp kinh phí duy tu, trung tu, đại tu và sau 50 năm, có thể phá đi xây dựng lại. Kết cấu Đảo chiều hoàn lưu, khối lượng công trình nhỏ, tính ổn định cao, không cần tu sửa, cải tạo thường xuyên; đã góp phần dần thay đổi văn hóa công trình.

***

Năm 1993, Cục Xây dựng Bộ Công An ký hợp đồng thiết kế công trình bảo vệ bờ biển cho nhà nghỉ 378, với Trung tâm nghiên cứu và phát triển công nghệ - Trường Đại học Xây Dựng. Khu vực vốn là tư dinh của Bác sĩ Yersin, dân xóm Cồn cửa sông Cái gọi là Lầu ông Tư.

Thầy Hậu lúc đó là phó giám đốc Trung tâm. Ngày đầu tiên vào thị sát, thầy chứng kiến trận sóng đánh ghê gớm, cả bức tường bao của Nhà nghỉ 378 thành phố Nha Trang rung lắc, sóng bắn nước biển vào sân. Đoạn tường góc phía nam nứt toác, nền nhà dân đứng chông chênh trên vài chiếc cọc. Khu dân Xóm Cồn ở phía Bắc sập đổ để lại dấu vết hoang tàn. Triều rút, lộ ra nhiều khối bê tông kè cũ, kích cỡ 1m3 (nặng 2,4 tấn) được sóng hất từ dưới chân kè lên đỉnh kè, cao hơn 2,5m. Lộ ra dưới chân kè rất nhiều hang hốc lớn, khoét ngầm vào bờ, hình ảnh cho công trình tốn kém đã thất bại. Thầy Hậu trực tiếp lội xuống dò dẫm từng hang hốc dưới chân kè. Mùi cá tôm phơi trên bải biển được gió mang tới hòa với mùi thối nồng nặc từ các cống thải trực tiếp ra biển xông lên nồng nặc...

Hôm sau, thầy cùng các đồng nghiệp lên thắp hương trên núi Suối Dầu, nơi đặt phần mộ của Bác sĩ Alexandre Yersin, cách Nha Trang 60km; trong lòng ngổn ngang những câu hỏi.

Thầy Hậu (bìa trái) thăm phần mộ của Bác sĩ Alexandre Yersin

Từ đỉnh đồi. nhìn bao quát khu vực Suối Dầu, thầy nghĩ đến cách bố trí trận địa phòng ngự. Phía tiền duyên là bãi mìn và hào chống tăng để tiêu hao sinh lực đối phương. Sau đó bố trí các công sự chống trả địch đã bị tiêu hao một phần sinh lực. Trong cùng đặt sở chỉ huy. Kè biển không có một tuyến công trình tiêu hao năng lượng sóng khiến sức mạnh sóng đánh thẳng vào tường kè bê tông và khi rút ra, kéo theo cát dưới chân công trình. Những trận đánh không ngơi nghĩ của sóng khiến công trình mất nền đất dưới chân, kè sụp đổ do sức nặng tự thân đáng lẽ dùng để chặn sóng trong lúc thân kè vẫn còn nguyên vẹn.

Thầy Hậu đưa phương án: Chân kè và thân kè mái nghiêng, sử dụng tường hắt sóng dạng thủy động lực (thầy đưa ra công thức toán học xác định chiều cao, độ cong ứng với chiều cao sóng). Chân kè được bố trí các cấu kiện lát mái hình chữ nhật có lỗ khuyết tiêu sóng.

 Để ngăn chặn và tiêu sóng vào bờ, phải dùng khối Tetrapod. Nhưng cho đến năm 1992, chưa có công trình biển nào ở Việt Nam dùng khối này. 

Thầy tự nhủ: Ta phải là người đầu tiên đưa khối tetrapod về cho công trình biển Việt nam. Thầy chưa thấy khối này trong thực tế, phải đi tìm tài liệu nước ngoài để nghiên cứu chế tạo.

Ở nước ngoài dùng khối Tetrapod để chắn sóng. Tetrapod là một khối bê tông đúc sẵn có ba chân ở dưới, một mố cao hướng lên trên để phá sóng, giảm áp lực khi sóng tác dụng vào bờ. Kích thước chi tiết của khối được tính toán phù hợp tùy theo chiều cao của sóng. Trên thực tế, khối Tetrapod lớn nhất có thể nặng 30 tấn. Khi đặt nhiều khối cạnh nhau sẽ tạo thành một dãy khối có nhiều khe rỗng để tạo ra cơ chế tiêu hao năng lượng sóng.

Vấn đề nan giải: làm thế nào để chế tạo cấu kiện hình thù đặc biệt này, trong khi thầy Hậu mới chỉ nhìn qua sách vở.

Thầy Hậu đứng bìa phải khu vực sản xuất khối Tetrapod

Thầy và đồng nghiệp trăn trở, mày mò mãi để tìm cách tính toán và làm côp-pha chế tạo thành công. Các khối Tetrapod sau khi chế tạo sẽ được đưa lên xà lan bằng cần cẩu, vận chuyển đến công trình và được thả xuống bờ biển.

Và đứng trước biển là các khối Tetrapod 4 chân, 3 chân cắm vào cát, chân còn lại nghênh chiến với sóng, làm giảm năng lượng các con sóng xô bờ. Dù bị sóng quăng quật, lăn lê kiểu gì thì do hình dạng 4 chân đều nhau, khối Tetrapod vẫn tiếp tục đứng vững trên 3 chân, làm tiếp nhiệm vụ tiêu hao năng lượng của sóng.

Khởi công năm 1993; sau 3 tháng thi công, kè biển Bộ Nội vụ 378 của Bộ Công an, đã hoàn thành. Kè chống sóng tốt, có tính thẩm mỹ cao, trông sang trọng… được áp dụng cho nhiều đoạn khác của biển Nha Trang.

Công trình thành công dẫn đến việc sử dụng khối Tetrapod trở nên quen thuộc, thân thiện với cảnh quan dọc suốt chiều dài bờ biển đất nước.

Cũng trên cơ sở đó, thầy Hậu đã cố vấn và giúp đỡ các đồng nghiệp địa phương xây dựng những dự án, kè bảo vệ bờ biển cho các đoạn còn lại của Thành phố Nha Trang. Tiếp đến, áp dụng ở một số nơi trong cả nước. Biện pháp công trình góp phần tạo ra nhiều tuyến đường ven bờ biển ở các khu vực bị xói lỡ nghiêm trọng. Như tuyến đường Phạm Văn Đồng, cửa ngõ đẹp nhìn ra biển xanh và núi cho thành phố Nha Trang- thành phố biển duy nhất trong cả nước có bờ biển đẹp đã trở thành dãi bờ ổn định.

Công trình được sinh viên Phạm Anh Tuấn dùng vào đồ án tốt nghiệp. Trả lời phỏng vấn trong chuyên mục đường đến thành công, chương trình “Giáo sư Lương Phương Hậu và tiếng gọi từ sông, biển” phát trên kênh VTC10 phát lúc 21 giờ 30 ngày thứ bảy 19/8/2023; Tổng giám đốc công ty cổ phần tư vấn thiết kế cảng – kỹ thuật biên (PORTCOAST) Phạm Anh Tuấn cho biết: “Giáo sư Tiến sĩ Lương Phương Hậu là người luôn luôn tiên phong trong việc nghiên cứu các lý thuyết và ứng dụng vào thực tế cho các công trình chỉnh trị sông, biển, hoặc là chỉnh trị cửa biển. Công trình của thầy tồn tại vài chục năm không phải tốn tiền duy tu, trung tu, đại tu. Thầy là người đầu tiên trong ngành cảng, đường thủy được phong hàm Giáo sư. Ở góc độ của một nhà khoa học, tôi nghĩ rằng thầy Hậu đã cống hiến rất nhiều trong lĩnh vực, cảng, đường thủy của chúng tôi.”

Kết cấu được Bộ quốc phòng tham khảo, ứng dụng cho các công trình bảo vệ một số đảo Trường Sa...

Hơn 30 năm qua, công trình ổn định, được người dân đặt tên kè biển Yersin vì họ tin nó trường tồn với dân tộc ta như tên tuổi nhà bác học.

Giáo sư tiến sỹ Lương Phương Hậu cùng vợ (bà Lê Thị Quý) về thăm lại công trình: Kè biển viện 378, Nha Trang, do giáo sư thiết kế. Hơn 30 năm qua, công trình ổn định, được người dân đặt tên kè biển Yersin vì họ tin nó trường tồn với dân tộc ta như tên tuổi nhà bác học.

***

Các cửa sông miền Trung thường có các đặc điểm: trước cửa sông bị bồi lấp một bãi hình mũi tên cát. Bãi bồi này bị tác dụng sóng là yếu tố trội, diễn biến theo mùa và rất phức tạp. Cửa biển lại là nơi có yêu cầu cao về khai thác giao thông thủy của ngư dân.

Cửa sông Cà Ty là cửa có luồng vào cảng cá Phan Thiết (nay thuộc tỉnh Lâm Đồng), luồng lạch rất xấu. Thời Việt Nam cộng hòa quản lý, để cải tạo đã làm đê chắn sóng bằng đá đổ, người dân gọi là kè Lệ Xuân. Công trình chỉnh trị không cải thiện được tình hình, lại tạo ra diễn biến xấu hơn: bùn cát lấp cạn luồng tăng lên, tầu cá của ngư dân ra vào một ngày phải mất trên 5 giờ đợi chờ.

Vào 1992, đây là loại công trình lạ, chưa hề xuất hiện ở Việt Nam, chưa hề có quy trình, quy phạm về loại công trình này, nên những yêu cầu của thiết kế như khảo sát mới bình đồ và tính toán lại các yếu tố động lực đều không được bên A đáp ứng, chỉ còn cách sử dụng lại các số liệu cũ. Sau khi tiến hành các khảo sát hiện trường, nghiên cứu trên mô hình toán về trường động lực khu vực dự án, thầy Hậu chủ trì đề xuất phương án đào luồng qua ngưỡng cạn chắn cửa và dùng hai công trình ngăn cát giảm sóng như 1 gọng kìm để bảo vệ luồng. Đây là công trình chỉnh trị cửa sông Việt nam đầu tiên bố trí công trình cả 2 phía, mũi đê vươn ra đến nơi đáy biển có cao trình - 5,5m**.

Nếu như ở kè Yersin, khối tetrapod nhỏ, nặng 1,2 tấn, mới ở giai đoạn thử nghiệm, thì ở công trình đê ngăn cát giảm sóng cửa sông Cà Ty, khối tetrapod đã được sử dụng đại trà, lên đến trên 5000 khối, khối lớn nhất đạt 6 tấn.

Ngày 22/12/1993, Bộ trưởng Bộ Thủy sản bấy giờ là Nguyễn Tấn Trịnh trực tiếp ra lệnh khởi công. Dân chúng đổ ra xem lễ khởi công rất đông. Bên cạnh hội trường dựng tạm có 1 đống lớn các khối tetrapod đã được chế tạo. Sau lệnh khởi công của Bộ trưởng,  tràng pháo nổ vang, các máy đóng cọc nện những nhát búa đầu tiên. Thầy Hậu giữ vẽ mặt điềm tỉnh nhưng trong lòng dâng lên những cảm xúc khó tả. Chẳng bao lâu nữa, công trình do thầy thiết kế sẽ như 2 con rồng vươn ra biển giúp ngư dân thuận lợi ra khơi, vào bến.

Là một công trình có nhiều kỹ thuật mới, quá trình thi công gặp rất nhiều trắc trở. Công trường bị một số phần tử xấu vào tấn công, cướp vật liệu, tài sản; 1 học trò cũ của thầy phụ trách thi công bị đánh vào đầu phải khâu 8 mũi. Đang thi công nửa chừng đê C1, bão ập vào, làm dịch chuyển một vài khối  tetrapod. Do chưa có khái niệm gì về sự ổn định của loại công trình biển khối rời, nhất là đang thi công dở dang, nên một số người làm to chuyện, kết tội thiết kế sai lầm. Sự việc tranh luận căng thẳng kéo dài hàng tháng. Thầy Hậu so sánh thực tế chiều cao sóng biển cao hơn nhiều so với số liệu sóng được cung cấp lúc thiết kế; đề xuất tăng trọng lượng khối tetrapod từ 3 tấn lên 5 tấn. Lãnh đạo tỉnh đồng ý điều chỉnh thiết kế, mang lại hiệu quả tốt. Đê C1 hoàn thành sau 3 năm thi công.

Thời gian đó, cứ  mỗi lần nghe tin thời tiết báo áp thấp nhiệt đới hay bão đổ bộ vào Nam Trung Bộ, thầy Hậu như ngồi trên đống lửa, suốt đêm không chợp mắt được, lo cho công trình. Hồi đó, không có phương tiện liên lạc như bây giờ, nên càng khó xữ lý.

Bà Lê Thị Quý vào công trường thăm chồng với cảm nhận rất phụ nữ: chồng của mình “vác tù và hàng tổng”, ôm “quyền rơm vạ đá”; là nghiệp chứ không phải nghề. Lúc đó, thầy cô mới có con trai đầu Lương Giang Vũ lên 10 tuổi, chấp nhận cảnh cha đi công tác liên tục.

Tiếp đến, thầy Hậu đã có nhiều cải tiến trong kết cấu đê, đặc biệt đã sử dụng tường lõi, sáng kiến rất có hiệu quả.

Nhờ đó, tuyến đê C2, dài gấp đôi tuyến đê C1, nằm ở vị trí biển sâu hơn, chỉ mất 1 năm thi công thuận lợi, không có 1 sự cố nào.

Cho đến nay, đê C2 cảng cá Phan Thiết là công trình đẹp nhất so với các công trình cùng loại. Đỉnh đê phẳng lỳ, các khối tetrapod vẫn giữ được ổn định hàng lối. Ô tô tải, ô tô khách, có thể chạy an toàn từ gốc ra mũi đê. Công trình ổn định, mỹ quan, sau 30  năm xây dựng được người dân đặt tên: Đê càng cua, nơi trấn giữ sóng gió cho tầu ghe lúc bão đến; trở thành nét đẹp trong lòng ngư dân khi ra khơi và trở về lúc trời yên biển lặng và cảm giác an toàn lúc bão giông, sóng lớn ở ngoài khơi...

Hệ thống công trình Cảng cá Phan Thiết. Đây là công trình chỉnh trị cửa sông Việt nam đầu tiên bố trí công trình cả 2 phía. Đê C2, dài 600m, ổn định, mỹ quan, sau 30  năm xây dựng được người dân đặt tên: Đê càng cua, nơi trấn giữ sóng gió cho tầu ghe lúc bão đến.

***

Năm 1993, công trình bảo vệ bờ sông Cổ Chiên, khu vực thị xã Vĩnh Long là công trình bảo vệ bờ quy mô lớn đầu tiên sau 1975 thực hiện trên đồng bằng Sông Cửu Long.

Lúc đoàn xuống thực địa, các đoạn bờ sông Vĩnh Long nham nhở, bẩn thỉu, những xóm dân cư kiểu ổ chuột nằm chênh vênh trên những cọc tràm.

Kè cũ xây xong, sụp đổ khiến đường Tô Thị Huỳnh đã bị sạt mất hơn nửa, quán Cà phê bên Khách sạn Cửu Long đã phải di dời. Thầy Hậu cùng Phó giáo sư Lê Ngọc Bích lội xuống sông, chui vào các gầm nhà quan sát các hố xói hàm ếch trong bờ, hứng chịu "cơn mưa" từ các nhà vệ sinh dội xuống.

Ảnh: Bờ kè cũ tại thành phố Vĩnh Long

Bờ sông đất rất yếu, sông sâu trên 30m, không thể ứng dụng các kiểu kè miền Bắc được, cũng không thể làm các loại đê mỏ hàn. Thầy Hậu đề xuất kết cấu kè tường đứng: Đóng cọc bê tông cốt thép, lắp các bản chắn bằng bê tông cốt thép và neo vào đất, tương tự loại bến tường cừ trong công trình Cảng. Chân kè gia cố bằng thảm đá.

Giữa đợt thi công có xẩy ra 1 số trục trặc cục bộ: một số tấm bản chắn bung ra, vài chiếc cọc bị xiêu nghiêng. Dư luận xầm xì, cho rằng bị "ngài" phạt... Cả nhóm thiết kế gấp rút khắc phục các sự cố.

 Công trình khánh thành vào cuối năm 1995. Trên bờ kè, từ hiện trạng nham nhở, nhếch nhác được cải tạo thành vườn hoa, lối đi tạo cảnh quan phục vụ du lịch. Công trình chỉnh trị trên sông Cổ Chiên bảo vệ cho 14 vạn dân.

Đây không chỉ là 1 công trình có ý nghĩa khoa học - công nghệ cao mà còn mang tính lịch sử trên sông Cửu Long. Công trình sử dụng đa năng cho đường bộ phía trên và ghe xuống neo cập ở phía sông làm thay đổi diện mạo một khu vực thành phố hiện đại theo hướng thân thiện với môi trường…

Năm 1996, tôi đọc Báo Nhân dân ở trang 2 có bản tin: Khánh thành công trình chỉnh trị sông bảo vệ bờ sông Cổ chiên thành phố Vĩnh Long, đây là công trình chỉnh trị sông Cửu Long được tiến hành từ sau khi thống nhất đất nước, do Viện nghiên cứu khoa học thủy lợi Miền Nam tiến hành, kèm bức ảnh thầy Hậu đứng tựa bờ kè mới xây xong. Đây là công trình nhà nước cấp kinh phí để chỉnh trị đoạn sông Vĩnh Long, nhưng kết quả lại thu được thêm một tuyến đường ven sông, bến tầu, vườn hoa và cải tạo cảnh quan khu vực.

Giáo sư tiến sỹ Lương Phương Hậu về thăm lại công trình tại đường Tô Thị Huỳnh; được sử dụng đa năng (trị thủy, đường phố, bến cảng, vườn hoa) và được tôn tạo theo hướng xanh, sạch, đẹp nhờ hệ thống kè bờ ổn định.

***

Ngày 02/3/1982;  Bộ Giáo dục và Đào tạo Romania cấp học vị tiến sỹ cho nghiên cứu sinh Lương Phương Hậu.

9 năm sau, ngày 18/9/1991 tiến sỹ Lương Phương Hậu được phong Phó giáo sư.

Và 5 năm sau, ngày 8/7/1996, Hội đồng Học hàm Nhà nước phong học hàm Giáo sư cho thầy. Thầy Hậu trở thành giáo sư đầu tiên của ngành cảng - đường thủy. Mãi đến năm 2014 mới có giáo sư thứ hai của ngành.

Từ năm 1996 đến nay, Thầy tiếp tục thực hiện thành công nhiều công trình.

Thầy đã chủ trì thiết kế 13 công trình chỉnh trị sông, 1 cống ngăn mặn, 2 bến cảng, 10 công trình bảo vệ bờ biển...  Đa số là những công trình đã thất bại mặc dù nhiều tiền của, sức lao động đổ vào và chủ đầu tư đã chủ động mời thầy chủ trì thiết kế với yêu cầu xử lý tận gốc.

Các công trình chỉnh trị sông của thầy Hậu nghiên cứu và xây dựng đạt tới những thành công, kết quả chưa từng có nhờ: lần đầu áp dụng các kỹ thuật, công nghệ tiên tiến trên thế giới vào công trình Việt Nam. Thiết kế đạt yêu cầu về mức độ ổn định của công trình trên 30 năm và công trình kết hợp với bảo vệ môi trường, cải tạo cảnh quan và trên hết: giá thành rẽ hiệu quả cao. Bước đầu tạo ra văn hóa thiết kế các công trình chỉnh trị sông thuận theo tự nhiên do đó kinh phí rất thấp, hiệu quả rất cao và vững bền theo thời gian.

***

Ngày 24/6/2017, tại Sài Gòn - Thành phố Hồ Chí Minh, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam tổ chức hội thảo khoa học về “Định hướng giải pháp phòng chống sạt lở bờ biển Đồng bằng sông Cửu Long”. Lúc Giáo sư tiến sỹ Lương Phương Hậu ra khỏi hội thảo, mưa ngưng. Tôi đón thầy chủ nhiệm, dìu thầy bước lên vỉa hè ngã ba đường Trần Hưng Đạo vẫn còn nhiều chỗ đọng nước. Thầy nói:

- Dạo này thầy đi làm công trình rất nhiều nơi, trải dài trên 3 miền đất nước (thầy hợp tác với 18 viện, công ty tư vấn, Sở thủy lợi) nên hôm nay được gặp em là may mắn của thầy trò mình.

Nỗi giận, tôi nói với thầy: “Suốt đời đi khắp đất nước, làm các công trình để làm gì. Thầy lao tâm khổ trí, dùng cả thơ văn, ví von để giải thích tác dụng công trình mình thiết kế cho các cán bộ hiểu, sử dụng thiết kế của mình để làm gì; trong khi có đôi đồng thù lao thầy mang cho hết các cán bộ, nhân viên quản lý dự án... Đến nay, gia đình thầy vẫn sống cuộc sống nghèo, trên tầng 8 của một chung cư ở Hà Nội. Sao không ở nhà cho khỏe thân.”

Thầy dừng lại trên vĩa hè, nén hơi thở mệt nhọc, dịu dàng nói với tôi:

- Đến Cộng hòa liên bang Đức, thầy thăm vườn nhà thi hào Johann Wolfgang von Gothe (Gớt) mới hiểu đến tận cùng câu thơ nổi tiếng của ông:

“Mọi lý thuyết đều là mầu xám

Chỉ có cây đời mãi mãi xanh tươi”.

Gớt cho rằng lý thuyết không ứng dụng được vào thực tiễn đều vô dụng; nhưng nếu đi vào thực tế nó sẽ có sức sống của cuộc đời, tồn tại lâu dài cùng thời gian. Lý thuyết của thầy các nước áp dụng nhiều vì rẽ và hiệu quả cao. Trong khi các dự án nước ta, các công trình nhiều tiền được xếp thứ hạng cao và quan trọng.

Công trình của thầy thiết kế rẻ nhiều lần, hiệu quả cao hơn nên các địa phương ít tin dùng do định kiến đồ quá rẽ có chất lượng thấp, không an toàn. Chỉ khi họ bó tay, thầy mới được mời chủ trì thiết kế... Nếu thầy không đến những nơi khó khăn, tính toán thiết kế, thuyết phục các cán bộ ở đó thì chẳng ai làm, lý thuyết của thầy trở thành lý thuyết suông, tệ hơn mầu xám. Thu được đôi đồng, thầy thưởng cho những người dũng cảm vì nước vì dân, có xứng với trách nhiệm, sự giúp đỡ của họ đâu...

***

Đến nay, thầy đã viết và xuất bản 25 ấn phẩm, trong đó có 20 ấn phẩm là các loại giáo trình các môn học, tài liệu tham khảo chuyên ngành, 2 tập sổ tay kỹ thuật (viết chung) 2 tiêu chuẩn kỹ thuật ngành Thủy lợi; 1 tập thơ và in chung trong 2 tuyển tập thơ. Viết 83 bài báo trong đó có 8 bài đăng trong các tạp chí nước ngoài.

Trong lời nói đầu - trang 4, cuốn sách “Cảng biển vùng cửa sông, nghiên cứu và thực tiễn” – đồng tác giả: Giáo sư tiến sỹ Lương Phương Hậu, Tổng giám đốc PORTCOAST: kỹ sư Phạm Anh Tuấn và Giám đốc trung tâm chuyển đổi số PORTCOAST: kỹ sư Trần Phúc Minh, Nhà xuất bản Xây dựng ấn hành năm 2024, mã số ISBN: 978-604-82-8225-7; Chủ tịch Hội đồng quản trị PORTCOAST Nguyễn Tấn Phúc đánh giá: “Giáo sư tiến sỹ Lương Phương Hậu – nguyên Trưởng bộ môn xây dựng Cảng – Đường Thủy, Trường Đại học Xây dựng Hà Nội, chuyên gia động lực học sông, biển nổi tiếng, đồng thời cũng là chuyên gia của PORTCOAST…”   Thầy chủ biên cuốn sách này, là cách mà thầy khơi gợi đam mê nghiên cứu khoa học cho học sinh mình sau khi đã tích lũy kinh nghiệm thực tiễn về hoạt động tư vấn công trình được bổ nhiệm quản lý doanh nghiệp, chú trọng khoa học kỹ thuật chuyên ngành mình quản lý sẽ giúp mọi người trong cơ quan cống hiến được nhiều hơn ở công ty thầy có 22 năm hợp tác và gắn bó.

***

Nhớ hôm họp mặt lớp xong, thầy căn dặn chúng tôi hai điều:

“Không có điều gì là chắc chắn, chỉ có một điều chắc chắn là tất cả đều không chắc chắn. Thầy phải tìm được độ biến động nhỏ nhất trước khi cải tạo một phần vô cùng nhỏ của tự nhiên. Cuộc đời cũng vậy. Các em phải chấp nhận sống và làm việc trong môi trường luôn thay đổi, học hỏi từ khoa học và thực tế để giúp giảm định kiến; phải bắt đầu bằng việc tìm được những đồng thuận nhỏ nhất từ đối tác, đồng nghiệp để thuyết phục họ hợp tác với mình… mới làm tốt công việc được giao.

Tính đến hôm nay các em đã qua tuổi 50, đừng nghĩ mình ở bên kia cuộc đời. Khi mặt trời ngừng sáng, sông ngừng chảy, biển lặng yên, nghề nghiệp con người không còn tác dụng. Mặt trời của các em là sức khỏe, tình yêu cuộc sống, lòng yêu nghề để có ham muốn lao động, cống hiến; phải trân trọng, giữ gìn, nâng niu”.

***

Quê ở xóm Hàng, làng Thuần Hậu, xã Trung Sơn, huyện Đô Lương, tỉnh Nghệ An, Giáo sư tiến sỹ Lương Phương Hậu là hậu duệ đời thứ 17 của Trạng Lường – Lương Thế Vinh.

Với những đóng góp cho sự nghiệp giáo dục, khoa học và các công trình phục vụ sản xuất, đời sống, thầy đã được phong giảng viên cao cấp, danh hiệu Nhà giáo Ưu tú; được Nhà nước tặng huân chương Lao động hạng Ba năm 1991, hạng Nhì năm 2001...

Không chỉ đến 18 quốc gia để khảo sát học hỏi, mang kiến thức về cho đất nước; công việc còn buộc Giáo sư tiến sỹ Lương Phương Hậu đến và làm việc với tất cả  30/34 tỉnh (trừ các tỉnh Điện Biên, Lai Châu, Sơn La và Tuyên Quang). Đi hết các nhánh hệ thống sông Hồng, tất cả các sông lớn ở miền trung và hệ thống sông Hậu; thầy đã đi khảo sát rất nhiều vị trí bờ biển và đến 8 cửa biển của nước ta để thực hiện 13 đề tài khoa học cấp nhà nước, 6 đề tài cấp bộ, 13 đề tài phục vụ dự án đầu tư.

Không chỉ là kỹ thuật mà còn là cảm nhận của tâm hồn:

“Bờ biển Việt Nam dài bao nhiêu cây số

Truyện Kiều Nguyễn Du cũng từng ấy câu thơ

Câu lục (6 là thời gian) triều lên, sóng đánh vỗ bờ

Câu bát (8 bằng với thời gian triều xuống) triều xuôi, phù sa bát ngát”

 Trang 42, tập thơ Tôi đi tìm tôi –tác giả Lương Phương Hậu, Nhà xuất bản Hồng Đức, năm 2024, mã số ISBN: 978-604-89-9482-2.

Vòng đời công trình: lập dự án đầu tư, thiết kế kỹ thuật, thiết kế thi công, thi công và sau khi khánh thành: vài năm phải duy tu, chục năm trung tu và vài chục năm đại tu. Nếu là công trình vĩnh cữu, sau 50 năm sẽ hư hỏng, phá đi làm lại công trình mới hiện đại hơn. Chỉ những công trình trở thành biểu tượng văn hóa, ghi dấu ấn một thời như Lăng chủ tịch Hồ Chí Minh, Cầu Long Biên, Nhà thờ Đức Bà Sài Gòn, Dinh Độc lập… mới được người đời giữ cho trường tồn.

Nhiều công trình chỉnh trị được Nhà nước cấp vốn chỉ dùng cho mục đích trị thủy, đồ sộ, tốn kém và ít vẽ mỹ quan. Công trình do Giáo tiến sỹ Lương Phương Hậu chủ trì thiết kế ngoài mục đích bảo vệ người dân khỏi họa thủy tai; do ứng dụng kết cấu mới, hiện đại, nên giá thành rẽ. Theo phương châm thuận với tự nhiên và văn hóa khu vực nên các công trình được sử dụng nhiều mục đích: đường ven sông hoặc biển, kết hợp làm bến tầu, vườn hoa, nơi chụp hình lưu niệm... góp phần tôn tạo cảnh quan theo hướng xanh, sạch và đẹp. Nhiều vùng đất được công trình tô điểm, người dân tự đặt tên công trình như “Đê càng cua (ở cảng cá Phan Thiết)”, “Kè biển Yersin” (tại bờ biển Nha Trang)… trở thành điểm nhấn trong lòng người "Dù đi xa vẫn nhớ”. Các công trình tồn tại hơn ba chục năm, không cần tiền sửa chữa; nay khoác mầu thời gian, rêu phong, cũ đi và hòa vào cảnh quan như một bộ phận của thiên nhiên trở nên thân thiện, tươi đẹp; với thời gian, các công trình góp phần tạo ra văn hóa mới cho cư dân bản địa và sẽ tồn tại lâu dài do trở thành một bộ phận của văn hóa nơi công trình sinh ra để phục vụ con người.

Sài Gòn mùa hè năm 2025

LTH.

Ghi chú:

* Cao trình là thuật ngữ đo đạc, chỉ độ cao so với mực nước biển trung bình đo đạc trong nhiều năm gọi là mốc cao độ gốc (0m). Trước đây, các công trình ở miền Nam sử dụng mốc hải đồ của Hoa Kỳ xây dựng (Mốc cao độ gốc (mốc 0) ở Mũi Nai, Hà Tiên, Kiên Giang (nay thuộc tỉnh An Giang) thuộc vùng biển phía Tây Việt Nam hay còn gọi là Vịnh Thái Lan. Cao trình -1,0m là thấp hơn mặt nước biển trung bình mốc Mũi Nai 1m.

** Cao trình - 5,5m: là thấp hơn mặt nước biển trung bình mốc Mũi Nai 5,5m.

Nguồn: Báo Văn nghệ - Hội Nhà Văn Việt Nam số 34 (3417) ra thứ bảy ngày 23/8/2025.

Bài viết liên quan

Xem thêm
Tổ quốc trên hết
Tùy bút của Đại tá, nhà thơ TRẦN THẾ TUYỂN
Xem thêm
Xứ nhãn du ký – Bài viết của Phan Anh
Theo con đường trên mặt đê phía tả ngạn sông Hồng chúng tôi xuôi về phố Hiến để đến với vùng đất nổi tiếng một thời của xứ đàng ngoài mà từng được người đời truyền tụng là tiểu Tràng An và đi liền cùng với câu ca “Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến”.
Xem thêm
Bữa cơm ân tình giữa lòng thủ đô
Trong khuôn khổ chuyến đi về thủ đô tham dự Kỉ niệm 8 năm thành lập và sơ kết 6 tháng đầu năm 2025 của CỘNG ĐỒNG TÌNH NGUYỆN VIỆT NAM, rất nhiều sự kiện đã diễn ra và đều vô cùng ý nghĩa, trong đó có sự kiện Hoàng Xuân được ăn bữa cơm thân mật cùng với Giáo sư, Anh hùng Lao động, Nhà khoa học Nguyễn Anh Trí.
Xem thêm
Đêm thơ “tứ thuỷ” – Ký của Trần Thế Tuyển
Đại tá, nhà thơ Trần Thế Tuyển vừa gửi qua Zalo cho Văn chương TP.HCM bài viết nóng hổi về Đêm thơ “Tứ Thuỷ” diễn ra ở Tuy Hoà tối 17/8/2025.
Xem thêm
Nhớ mãi Bác cả Trọng
Vẫn biết đó là quy luật muôn đời của tạo hoá, nhưng khi nghe tin “Bác cả Trọng” – Đại tá, nhà báo Phạm Đình Trọng, nguyên Trưởng Ban đại diện phía Nam Báo Quân đội nhân dân về với tổ tiên, chúng tôi không khỏi bàng hoàng…
Xem thêm
Cầu siêu giữa đại ngàn
Bài viết dưới đây của Đại tá nhà văn Trần Thế Tuyển ghi lại những cảm xúc sâu lắng của một người lính già tại lễ cầu siêu đặc biệt giữa đại ngàn Trường Sơn, nơi hội tụ nghĩa tình đồng đội và lòng tri ân sâu sắc.
Xem thêm
Miền ký ức giữa rừng đước Cần Giờ
Hướng tới ngày Thương binh Liệt sĩ 27/7, Văn chương TP. Hồ Chí Minh xin giới thiệu bài viết của nhà văn Đậu Thanh Sơn về vùng đất Cần Giờ – nơi từng là căn cứ địa của Trung đoàn 10 Đặc công Rừng Sác.
Xem thêm
Cua và tôm - Tản văn Trần Thế Tuyển
Bây giờ theo sắp xếp địa danh mới, gọi chung là lục tỉnh Miền Tây. Trước khi sáp nhập, chúng tôi có chuyến hành hương cửu tỉnh đồng bằng sông Cửu Long và ngộ ra nhiều điều – mừng có, lo có!
Xem thêm
Tản mạn “Đêm trừ tịch”
Tản văn của Đại tá nhà thơ Trần Thế Tuyển
Xem thêm
Gặp gỡ Trường Sa – yêu hơn Tổ quốc mình
Một hành trình giàu cảm xúc của nhà báo nhà văn Phương Huyền
Xem thêm
Không thể - Trần Thế Tuyển
Không thể – một khúc nhớ lặng lẽ nhưng chan chứa yêu thương và tri ân của Đại tá, nhà báo Trần Thế Tuyển dành cho Đại tá, nhà báo Phạm Đình Trọng
Xem thêm
Ngòi bút thi sĩ giữ lửa nghề báo: Một trăm năm mãi xanh
Chuyên mục Tiếng nói nhà văn của báo Văn nghệ, số 25, ngày 21/6/2025
Xem thêm
Ngày của sự sinh thành - Bút ký của Lê Thị Tuyết
Bài viết về ngày 30/4/1975 và những năm tháng không thể nào quên
Xem thêm
“Quan trí” - Bút ký của Lê Thanh Huệ
Nguồn: Báo Văn nghệ - Hội Nhà Văn Việt Nam số 3193
Xem thêm
Vì yêu mến chữ yêu người yêu văn
Bút kí của LA GIANG (Nguyễn Minh Đức)
Xem thêm
Trước bóng tiền nhân – Ký của Nguyên Hùng
Bài đăng Tạp chí Sông Lam, số tháng 5 năm 2025
Xem thêm