TIN TỨC

Tình yêu mang phận cỏ và những khắc khoải tận cùng xanh

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2021-11-13 06:26:45
mail facebook google pos stwis
875 lượt xem

(Đọc Đừng trôi nữa tình yêu mang phận cỏ - Đinh Thị Thu Vân, NXB Hội Nhà văn, 2015)

HUỆ TRIỆU

Tôi nhớ cảm giác thảng thốt khi mới đọc mấy bài đầu tập thơ Đừng trôi nữa tình yêu mang phận cỏ của Đinh Thị Thu Vân và có một mong muốn lạ lùng rằng, ở những bài sau, sẽ gặp cái gì khác đi. Nhưng không, 5 bài, rồi 10 bài, rồi hết tập thơ, vẫn là cái mạch ấy - cái mạch bắt nguồn từ nỗi thương thân, từ những khắc khoải da diết tận cùng xanh kiếp cỏ!
 

Các nhà thơ Huệ Triệu và Đinh Thị Thu Vân

Viết cho mình là điều thông thường ở tất cả những người đã trót mang nghiệp viết, bởi nói cho cùng viết về điều gì hay về ai cũng chỉ là những hình thức khác nhau của sự đối thoại với chính mình. Tập thơ Đừng trôi nữa tình yêu mang phận cỏ cũng là sự đối thoại ấy, nhưng là đối thoại trực diện, thành thực nhất, quyết liệt nhất mà tôi từng thấy với nỗi buồn, nỗi cô đơn cho tới khi nó chảy tan thành nước mắt.

Cảm hứng thương thân trước hết bắt nguồn từ những ngậm ngùi, xót tiếc:

Em xót đời em rơi rụng nhớ nhung thừa

không dành dụm, không vẹn toàn hương lửa

đã hoang phí đã dại khờ đã lỡ

đã hanh hao tàn tạ suốt bao mùa!

(muộn)

Hay:

nửa niềm hy vọng đang vơi

tôi ngơ ngác tiếc đời tôi phai tàn

(nửa niềm hy vọng đang vơi)

Những câu thơ đọc lên buốt nhói bởi lẽ những “nhớ nhung thừa”, “hoang phí”, “dại khờ” kia là sự tự ý thức cùa một người đàn bà dường như đang bất lực trước dòng chảy của thời gian, chỉ còn biết “ngơ ngác tiếc”! Nhưng không chỉ có thế, đó còn là là sự ý thức cao độ về chân giá trị - những “dốc lòng trao tặng”, “nhớ nhung đầy”, “cạn trắng sông xanh và biển biếc”,… dành tặng tình yêu nhưng lại chỉ nhận về mình thua thiệt. Tập thơ dẫu buồn như nước mắt nhưng cho ta nhận diện một gương mặt tình yêu thật đẹp mà tôi đảm bảo rằng bao nhiêu người sẽ phải ước ao bởi nó quá đỗi chân thành, cháy bỏng. Nhiều người đàn bà cũng yêu mãnh liệt nhưng đến mức cạn cùng, tan chảy, không ngại “lụy” để được yêu như thế này thì chỉ có một Đinh Thị Thu Vân:

Lụy yêu lụy nhớ lụy chờ

Lụy nao hơi thở, lụy đưa đẩy lời

Anh ơi em ngả nghiêng rồi

Bao nhiêu hạt máu đang rời trái tim!

(lụy)

Nhưng buồn quá phải không, bất công quá phải không vì giá mà mình cũng vô tâm, và không thành thật “trao đến phai tàn” để không phải nhận về, nhận ra những hờ hững mà ai đó vô tâm “trút xuống vai người”! Buồn thế, nhưng rồi biết làm gì hơn, hay chỉ biết cùng thơ ấm ức:

em ấm đầy nước mắt

mà lòng anh lạnh cằn

(những câu thơ khuỵu xuống)

Rất nhiều những giây phút “câu thơ khuỵu xuống” vì hụt hẫng, vì “trước vô tâm người đã tặng cho người”, vì sự thật “anh dừng lại đành sao giây phút tạm”,… Vậy mà, cả tập thơ, không có một dòng nào oán giận đến cay nghiệt, dù có hờn có trách. Có vẻ như người đàn bà chỉ muốn nhận về trọn vẹn nỗi khổ, coi đó như là định mệnh của đời mình:

em sẽ sống, cam lòng xin đánh đổi

chất ngất tủi hờn… để nhận chút hương rơi!

(là ngày mai đừng vội hôm nay)

Thương và cảm phục quá trái tim mong manh mà dũng cảm của người đàn bà hết mình với chữ “yêu’. Dường như đã có một tình yêu lớn để chị tựa vào. Nhưng cuộc đời trớ trêu lại chỉ cho người ta tìm thấy hạnh phúc trong nghịch cảnh. Coi mình như “con thiêu thân cam phận sống quên đời”, người đàn bà lao vào những đợt sóng ào ạt yêu thương nhớ nhung thắc thỏm. dù biết trước sẽ nhận về mình tận cùng bẽ bàng, chua xót. Mấy ai hiểu được, người đàn bà đã một khi đã yêu, còn bao dung cả với chính mình, cho nên có là gì đâu trước những điều này:

có thể vì anh đã quen nhận từ em những hy sinh lầm lũi

những chăm chút tận tình từ một phía thủy chung

(say buồn)

Trước linh cảm chia xa, cũng không trách móc mà chỉ thương. Đây là lời an ủi của một trái tim vị tha và thấu hiểu:

anh đừng xót, anh đừng đau

em đi, chẳng trách gì nhau, chẳng đành

chỉ là thương những dụm dành

đã không còn kịp trao anh kiếp này!

(hồn em theo nén nhang rời sẽ đau)

Lấy tình yêu làm cứu cánh, để rồi lạc vào chính nỗi đau do mình tạo nên, người đàn bà nhiều lúc muốn tự dối lòng, tự ngăn mình đến với xôn xao bất chợt. Bởi lẽ cùng với xôn xao luôn là sự xuất hiện của những dự cảm buồn:

đâu phải tình yêu- sương khói đấy, và mây

và bọt sóng đang đùa trêu- lần cuối đấy

không phải tình yêu đâu, V ơi, đừng đắm đuối

đừng hao gầy, thôi đừng ước một đời say...

(không phải tình yêu)

Đôi khi còn không cam lòng, “gồng” lên như thách thức, như sẵn sàng buông bỏ:

một ngày

mỏi mòn trong ảo vọng

tôi sẽ đem bán đi trái tim mình

không cần chọn người mua

không cần sòng phẳng!

(trái tim rao bán)

Trái tim rao bán có thể coi như một tín hiệu để nhận ra những bức bối đang đè nén, cũng như sự mâu thuẫn với chính mình có thể coi như dấu hiệu để nhận ra một tâm hồn đa cảm, đa đoan và đau đáu khát khao. Mong mình “đừng thiếu nữ” mà vẫn xôn xao nhung nhớ như thuở ban đầu. Đã không ít lần muốn “giẫm nát trái tim mình, giẫm nát khát khao đi” nhưng từng phút từng giờ vẫn không thôi tự ru mình và cồn cào mơ ước. Tự chúc mình “đừng thiếu nữ” mà “thèm khóc tuổi xuân không về nữa”. Nói “chẳng phải yêu đâu” nhưng lại tỏ bày niềm hoan hỉ được “đốt đời em lần cuối”:

chẳng phải yêu đâu- là em đang cạn máu

đang khát đến tận cùng, đang cháy đến tàn hơi

đâu phải là yêu- em đốt đời em lần cuối

phó thác tàn tro quanh quẩn dưới chân người!

(em không thể cam lòng trôi nổi)

Không phải chỉ là tình yêu, hình như còn nhiều hơn thế, cao hơn thế nữa.

Đừng trôi nữa tình yêu mang phận cỏ nói cho cùng, là tập thơ của những khát vọng được níu giữ, được đáp đền. Người đọc có thể không mấy đồng tình trước những tự ti mặc cảm, nhận mình bé mọn: “em chỉ là xác lá ven đường/ anh không nỡ giẫm chân lên” (lá khô), “em làm cát, em làm bùn, em xin làm cát vụn” (nhật kí) hoặc “nếu có kiếp sau, em xin làm bậc cửa/ làm thềm rêu lặng lẽ đợi chân người” (gió bụi chông chênh) nhưng không thể không “giật mình”, thương quý một khát vọng chính đáng- khát vọng gắn với tình yêu che chở cưu mang và sẵn lòng dâng hiến:

đủ tất cả, chỉ là không mảnh đất

để vun trồng và chăm chút mượt mà xanh!

(lá khô)

Mong manh mà mãnh liệt, tuyệt vọng rồi hy vọng, buông bỏ để quay về…Tất cả tạo thành những phức điệu tâm trạng mà bao trùm lên vẫn là mong ước khắc khoải tưởng như vô hồi vô tận. Không bàng bạc mà bật thốt thành tiếng những kêu thương:

tri kỉ ơi, lòng em như lửa đốt

chôn làm sao cho kín nhớ nhung đầy

tri kỉ ơi, lẽ nào anh chẳng thấy

em đã mềm hơn nước, mảnh hơn mây…

(tri kỉ ơi, anh có về như gió)

Se thắt nhất là những van nài khẩn thiết gửi tới chính số phận mình:

Hãy dừng lại đời tôi ngay khoảnh khắc đắm say người

Đừng trôi nữa… sông xa mời mịt quá

Đừng trôi nữa tình yêu mang phận cỏ

Mang phận buồm… không gió để ra khơi!

(đừng trôi nữa tình yêu mang phận cỏ)

Tập thơ, ngoài nỗi buồn trĩu nặng như có hình có khối của một người đàn bà từng trải qua nhiều biến cố, còn là những mong manh của một trái tim phụ nữ nhạy cảm, dễ bị tổn thương. Chút chờ đợi trong chiều thành niềm tủi hờn ẩn ức bởi “quanh quẩn những lời yêu không dối được cứ loang nhòa” (Chiều). Bài Cuối con đường đơn chiếc là một trong những bài thơ ắp đầy những dịu dàng thắc thỏm chỉ sợ lạc nhau cuối con đường:

đừng dối em

anh có một trái tim

biết khóc

nột trái tim

khao khát vỗ về

....

anh dối em, em nhầm lẫn thì sao

ai chia sẻ khoảng đời riêng gió bão…

51 bài thơ là những tự bạch chân thành của một người đàn bà tự nhận mình là kẻ “mang nỗi buồn tay trắng” nhưng tôi thì không tin chỉ có vậy. Đối diện với lòng mình, để nhận ra mình, quan trọng nhất là được nói ra, được tỏ bày. Lấy tình yêu “để giữ ấm trái tim mình”, mong cứu rỗi chính mình, song tình yêu cùng niềm khao khát dù chỉ là phận cỏ vẫn đang biếc xanh để nâng đỡ chị và nhiều người khác. Miền yêu thương với “những lời yêu tơ lụa” vẫn cứ ánh lên óng ả bởi nâng niu trân trọng, và niềm tin vĩnh cửu “như xát muối...mà tình yêu vẫn sống”. Đó là niềm tin, đó cũng là niềm an ủi cho những ai đã hiểu “yêu thương đan quyện nỗi đau thầm”, nhận ra và thấu trải vị ngọt ngào sau nước mắt.

“Không đành bèo bọt trôi đi”, thơ Đinh Thị Thu Vân đã neo lại giữa cuộc đời bằng nỗi buồn đẹp và thuần khiết, và nhất định không thể chỉ là tuyệt vọng:

này những tình yêu, khi còn có thể

hãy nâng niu từng khoảnh khắc tay cầm

này những chiếc hôn sâu, khi còn có thể

hãy dịu dàng trao gửi trước trăm năm

(kề cận nhé khi còn có thể)

Đừng trôi nữa tình yêu mang phận cỏ chắc chắn nhận được nhiều đồng cảm, sẻ chia. Tất nhiên, người đọc còn yêu mến thơ Đinh Thị Thu Vân bởi chị là tác giả của những câu chữ vừa dung dị vừa tài hoa. Nhưng xin bàn về phương diện này trong một bài viết khác.

Thành phố HCM, tháng 3/ 2016
H.T.
(Bài đăng Văn Nghệ số ra ngày 16/4/2016).

Bài viết liên quan

Xem thêm
Người chiến sĩ Điện Biên Nguyễn Thiện Thuật - Mùa hoa ban đẹp mãi
Đối với mỗi người Việt Nam chúng ta hôm nay, cái tên Điện Biên Phủ đã như một dấu mốc luôn hiện lên sừng sững mỗi khi nhắc đến. Ai cũng rưng rưng xúc động bởi máu xương của cha anh, của nhân dân đã đổ xuống để làm nên chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ là không thể đo đếm hết được.
Xem thêm
Những trang văn phảng phất mùi thuốc súng
Bài tham luận của nhà văn Đỗ Viết Nghiệm
Xem thêm
Di cảo thơ Chế Lan Viên: Khi thơ là thuốc, là lời kinh kệ
Chế Lan Viên là người mà sự nghĩ ngợi vận vào thơ như thể thơ cũng là thuốc, thơ chẩn ra được cái bệnh đau của kiếp người, và “Có vào nỗi đau mới có ích cho người”.
Xem thêm
Cảm hứng sinh thái trong thơ Đặng Bá Tiến
 Là một nhà báo, nhà thơ mấy chục năm gắn bó với vùng đất Đắk Lắk, Đặng Bá Tiến đã sáng tác thành công về thiên nhiên, con người và văn hoá Tây Nguyên với nhiều tác phẩm: Lời chân thành với cỏ (Thơ, 2009), Rừng cổ tích (Trường ca, 2012), Hồn cẩm hương (Thơ, 2017), Linh hồn tiếng hú (Thơ, 2020). Anh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thơ ca Tây Nguyên đương đại, một nhà thơ “thứ thiệt”[1] có bản sắc riêng, thể hiện phong cách nghệ thuật độc đáo. Nổi bật trong sáng tác của anh là những tác phẩm viết về rừng, về sinh thái văn hoá và nhân văn.      
Xem thêm
Sức bền của ngòi bút
Nguồn: Văn nghệ TP. Hồ Chí Minh số 116, ngày 21/3/2024
Xem thêm
Nguyễn Bính ở phương Nam
Nguyễn Bính (1918-1966), tên thật là Nguyễn Trọng Bính (có lúc tên Nguyễn Bính Thuyết), quê ở Nam Định nhưng sống khắp ba miền đất nước. Ông có phong cách một nhà thơ lãng tử, sáng tác về chủ đề tình cảm làng quê và tình yêu, tổ quốc. Thơ tình cảm mộc mạc của ông được rất nhiều người thuộc. Tác phẩm gồm 26 thi tập trong đó có : + 1 kịch thơ : Bóng giai nhân (1942): + 3 truyện thơ : Truyện Tỳ Bà (1942); Trong bóng cờ bay (1957); Tiếng trống đêm xuân (1958): + 1 vở chèo : Người lái đò sông Vỹ (1964) và rất nhiều bài thơ nổi tiếng của ông được nhạc sĩ phổ thành ca khúc : Tiểu đoàn 307 (Nguyễn Hữu Trí phổ nhạc, Quốc Hương ca);  Cô hái mơ (Phạm Duy); Ghen (Trọng Khương), Cô lái đò (Nguyễn Đình Phúc); Chân quê (Minh Quang). Hiện nay, nhiều thành phố có những con đường mang tên ông. Nhà thơ Nguyễn Bính nhận được giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học Nghệ thuật (2000) cùng với Hoài Thanh, Bùi Đức Ái, Nguyễn Quang Sáng, …
Xem thêm
“Đánh thức mình bằng chân lý vô ngôn”
Tôi biết Nguyễn Minh Thuận (nguyên Tỉnh ủy viên, Giám đốc Sở Tư pháp Đắk Lắk) làm thơ đã lâu, dễ hơn ba chục năm trước, thỉnh thoảng anh vẫn đọc cho tôi nghe và rải rác anh cho đăng trên facebook Trương Thị Hiền - vợ anh (TS, giảng viên Trường Đại học Tây Nguyên).
Xem thêm
Đọc “Thơ mười năm” của Hoàng Đình Quang
Bài viết của nhà thơ Trần Quang Khánh
Xem thêm
Hoàng hôn chín – chín mọng yêu thương
Về tập thơ in chung của Võ Miên Trường và Triệu Kim Loan
Xem thêm
Thơ Phan Hoàng trong hành trình ngược lối – Tiểu luận của Mai Thị Liên Giang
Tập thơ “Chất vấn thói quen” của Phan Hoàng từng nhận được nhận Giải thưởng Hội Nhà văn TPHCM và Tặng thưởng Hội Nhà văn Việt Nam năm 2012, sau đó tập thơ này được trao Giải thưởng Nghệ thuật Danube năm 2023 của Hungary. Ngoài ra tập trường ca “Bước gió truyền kỳ” của ông cũng được Ủy ban nhân dân TPHCM trao Giải thưởng Văn học Nghệ thuật TPHCM 5 năm lần thứ II. Để hiểu thêm về hành trình sáng tạo thi ca của nhà thơ Phan Hoàng, xin trân trọng giới thiệu bài viết của nhà lý luận phê bình văn học Mai Thị Liên Giang.
Xem thêm
Những giải mã thú vị, khoa học của một người đọc tri âm
Với kiến văn sâu rộng, sự nghiên cứu cẩn trọng mang tính học thuật cao, khai thác nhiều vấn đề tri thức lý luận mới mẻ; Trần Hoài Anh đã đem đến những trang viết tinh tế, khai mở nhiều điều lý thú và bổ ích.
Xem thêm
Hồn xuân trong thơ Hồ Chí Minh
Nhà thơ Trung Quốc Viên Ưng đã nhận định sâu sắc về Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Một trí tuệ lớn, một dũng khí lớn, một tâm hồn lớn”.
Xem thêm
“Trung thực và quả cảm” trong sáng tác và phê bình văn học, nghệ thuật
Bài viết của nhà thơ Mai Nam Thắng trên Văn nghệ số 4/2024
Xem thêm
Nguyễn Quang Thiều với ‘Nhật ký người xem đồng hồ’
Bài viết của Nguyễn Văn Hòa về tập thơ Nhật ký người xem đồng hồ của Nguyễn Quang Thiều
Xem thêm
Nửa lo giá chợ nửa ngây vì trời
Nguồn: Báo Văn nghệ số 4, ra ngày 27/1/2024.
Xem thêm
Dòng kinh yêu thương
Tháng 8 năm 1969, chương trình Thi văn Về Nguồn góp tiếng trên Đài phát thanh Cần Thơ vừa tròn một tuổi. Nhân dịp nầy, cơ sở xuất bản về Nguồn ấn hành đặc san kỷ niệm. Đặc san tập họp sáng tác của bằng hữu khắp nơi, với các thể loại như thơ, truyện, kịch… và phần ghi nhận sinh hoạt văn học nghệ thuật ở miền Tây trong một năm qua. Trong đặc san này, chúng tôi in một sáng tác của nhà thơ Ngũ Lang (Nguyễn Thanh) viết ngày 24/8/1969, gởi về từ Vị Thanh (Chương Thiện), có tựa đề “Đưa em xuôi thuyền trên kinh Xà No” Hơn nửa thế kỷ trôi qua với bao nhiêu biến động, ngay cả tác giả bài thơ chắc cũng không còn nhớ. Xin được chép lại trọn bài thơ của anh đã đăng trong Đặc san kỷ niệm Đệ nhất chu niên Chương trình Thi văn Về Nguồn, phát hành vào tháng 8 năm 1969.
Xem thêm
Minh Anh, người đánh thức thế giới
từng chữ từng chữ/ rơi vào từng dòng từng dòng/ chúng chụp lấy những khoảnh khắc/ đẹp não nùng/ không thể rời khỏi con tim/ cách duy nhất để tự nó đừng nở rộ quá mức/ vượt khỏi ký ức của ta/ là hãy viết xuống (Sự kỳ lạ của nghệ thuật viết).
Xem thêm
Ta sẽ không như cốc trà nguội cuối ngày
Bài viết của Nguyên Bình về tập thơ Vọng thiên hà của Hoa Mai.
Xem thêm