TIN TỨC
  • Lý luận - Phê bình
  • Trần Ngọc Phượng với câu chuyện kể cảm động về hai bài thơ được viết trên đường ra trận

Trần Ngọc Phượng với câu chuyện kể cảm động về hai bài thơ được viết trên đường ra trận

Người đăng : nguyenhung
Ngày đăng: 2024-06-09 15:22:09
mail facebook google pos stwis
5164 lượt xem

NGUYỄN VĂN HÒA

Nhà thơ, Cựu chiến binh Trần Ngọc Phượng sinh năm 1945 tại Sài Gòn, quê quán Nam Định. Trong kháng chiến chống Mỹ, anh là Đài trưởng Vô tuyến điện Đoàn 814 Cục hậu cần B2. Anh làm thơ từ rất sớm, ngay từ những năm tháng tham gia chiến đấu ở chiến trường. Nhiều bài thơ được viết trên đường hành quân và có liên quan đến những địa danh, những con người người của một thời đạn lửa. Trong số đó có bài thơ: Dốc Năm CuaNgã Ba Cây Cầy được rất nhiều đồng chí, đồng đội của anh biết đến. Thời gian cứ trôi đi cùng với những biến cố thăng trầm của lịch sử, những chi phối của cuộc sống cá nhân tưởng những 2 bài thơ trên sẽ đi vào quên lãng. Nào ngờ, ngày họp mặt vào cuối tháng 4/2015, Trần Ngọc Phượng được chính người đồng đội của mình là Đỗ Thanh Hà trao lại bản chép tay bài thơ trên mà Trần Ngọc Phượng gửi anh của hơn 40 năm trước...

Sau ngày đất nước hòa bình, Trần Ngọc Phượng chuyển ngành về công tác tại TP. Hồ Chí Minh. Hiện anh đã về hưu, Hội viên Cựu Chiến Binh, Hội viên Hội Nhà văn TP. Hồ Chí Minh.


Nhà thơ Trần Ngọc Phượng và tác giả bài viết

Năm 1971, Đoàn 814 thuộc Cục Hậu cần B2 được thành lập trên cơ sở sáp nhập Đoàn Hậu cần 81 và 84. Trần Ngọc Phượng là người chiến sĩ trực tiếp tham gia Đoàn 814. Anh đã đi qua những năm tháng gian lao của cuộc chiến lại là người chiến sĩ có tâm hồn thơ ca nên những điều gì xảy ra trên đường hành quân cũng đều để lại cho Trần Ngọc Phượng những rung cảm. Trong thời khắc khó khăn, ác liệt nhất ở chiến trường mà Trần Ngọc Phượng vẫn dành tình yêu với thơ ca, chép vội trên giấy pơ luya... để ghi lại cảm xúc của mình với những người đồng chí, đồng đội và cả với những điều anh chứng kiến trên đường hành quân. Điều ấy thật đáng trân quý biết nhường nào!

Trên đường hành quân, phải di chuyển đến nhiều nơi nên mọi khó khăn, thách thức đè nặng trên vai của người chiến sĩ. Đặc biệt là những năm tháng cuộc chiến tranh ở vào giai đoạn ác liệt nhất. Vậy mà Trần Ngọc Phượng vẫn âm thầm ghi chép, vẫn lặng lẽ làm thơ. Những nơi anh và đồng đội đã đi qua, những địa danh, tên đất, tên làng... đi vào thơ anh một cách tự nhiên, hồn hậu. Trong tất cả những nơi đã đi qua, có 2 địa danh được Trần Ngọc Phượng nhắc đến ở 2 bài thơ: Ngã ba Cây Cầy (1973), Dốc Năm Cua (1974) để ca ngợi các chiến sĩ vận tải. Ngã ba Cây Cầy, Dốc Năm Cua là những điểm mốc quan trọng mà bất cứ người chiến sĩ nào đi qua cũng đều ấn tượng và không thể nào quên. Hai bài thơ này đã trở thành dấu mốc quan trọng và có nhiều điều đặc biệt hơn so với những bài thơ khác sáng tác trong thời điểm này. Người chiến sĩ Trần Ngọc Phượng đã trực tiếp ghi lại những cảm xúc của mình với những người đồng đội, chiến sĩ đã đi qua trên những những cung đường đầy hiểm nguy ấy.

Trần Ngọc Phượng bồi hồi nhớ lại: “Khi viết xong Ngã ba Cây Cầy Dốc Năm Cua tôi gửi ngay bản chép tay cho bạn mình là Đỗ Thanh Hà (lúc đó là nhân viên quân giới ở Đoàn bộ) để góp ý, sửa chữa và đăng báo tường. Liền sau đó là cuộc tổng tiến công nổi dậy mùa Xuân 1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, bận rộn với công việc nên tôi cũng quên đi. Mấy chục năm sau khi về hưu, tình cờ gặp lại anh Hà đã trao lại cho tôi bản chép tay ngày xưa mà tôi gửi anh sửa chữa, góp ý để đăng báo tường. Tôi vô cùng xúc động, nghẹn ngào không ngăn được nước mắt khi nhận lại tờ giấy pơ luya chép tay thơ đã mấy mươi năm mà anh Hà vẫn còn giữ để trao tận tay cho mình”. Niềm vui vỡ òa cùng với đó là những kỷ niệm một thời đạn lửa, nhọc nhằn ùa về. Tôi đem về và vội đánh máy gửi 2 bài thơ trên để gửi đăng báo. May mắn thay cả hai bài Ngã ba Cây CầyDốc Năm Cua được đăng trên Báo Quân đội nhân dân và Báo Cựu chiến binh Thành phố Hồ Chí Minh. Điều đáng nói ở đây là 2 địa danh trên là do chính những người chiến sĩ đi qua cung đường này và tự đặt. Và trong số đó có người đã hy sinh, số còn lại có người không còn biết cụ thể 2 địa danh đó giờ nằm ở vị trí nào bởi thời gian và sự thay đổi... May thay, khi đọc được 2 bài thơ này đăng báo, những người đồng chí, đồng đội của Trần Ngọc Phượng đã cung cấp thêm tư liệu và thông tin cụ thể về 2 địa danh trên. Vẫn còn những nhân chứng sống, biết và kể chi tiết về Ngã ba Cây Cầy và Dốc Năm Cua. Nhờ thế, mà việc tìm hài cốt đồng chí, đồng đội cũng có phần thuận lợi hơn.

Dốc Năm Cua Ngã ba Cây Cầy đã trở thành dấu mốc quan trọng trong những năm chiến tranh và cả trong những năm tháng hòa bình. Nhiều đồng chí, đồng đội của anh đã qua đây có người đã vĩnh viễn nằm lại nơi này. Để rồi, sau ngày đất nước hòa bình người ta đã về lại những nơi này để tìm/ lấy hài cốt những liệt sĩ đã hy sinh.

Dốc Năm Cua nằm trên cung đường qua lộ Trần Lệ Xuân, ngầm Mã Đà, sân bay Rang Rang (nay thuộc huyện Vĩnh Cửu, tỉnh Đồng Nai) xuống sông Đồng Nai. Dốc này rất cao, có nhiều khúc cua gắt, anh em gọi là Dốc Năm Cua. Anh Đinh Văn Long, lái xe của Đại đội vận tải V21 (Đoàn 814) kể rằng: “Anh em dùng xe REO của Mỹ. Xe cũ, phanh hỏng. Mỗi lần lên dốc phải gài số 1, thả tời buộc vào gốc cây cho xe bò lên từng đoạn. Mùa mưa đường trơn, nhiều lúc xuống dốc xe trôi tự do, nhiều lần lật xe. Không những thế còn thường xuyên bị địch thả pháo sáng, ném bom và tập kích bằng pháo bầy. Nhiều anh em đã hy sinh ở đây”.

Còn Ngã ba Cây Cầy nằm ở Cánh 1 phục vụ các đơn vị thuộc khu vực Thủ Dầu Một. Trong chiến dịch Nguyễn Huệ năm 1972, Đại đội V21 chở hàng từ Bình Cơ (nay thuộc xã Bình Mỹ, huyện Bắc Tân Uyên, tỉnh Bình Dương) xuống Phước Vĩnh (nay là thị trấn Phước Vĩnh, huyện Phú Giáo, tỉnh Bình Dương) để phục vụ cho Sư đoàn 7 đánh Chơn Thành, Hớn Quản (nay thuộc tỉnh Bình Phước), lập nên những chiến công vang dội, được báo chí ca ngợi, nêu kỷ lục 150 này đêm chốt chặn bám trụ kiên cường trên đường 13.

Anh Đặng Đường, nguyên Trợ lý Tiểu đoàn 6 (Đoàn 814) kể một cách rành mạch chuyện tìm mộ liệt sĩ ở Ngã ba Cây Cầy: “Tháng 9/1974, có 6 anh em của Tiểu đoàn 6 và 2 lái xe của Đại đội V21 vận chuyển hàng trên chiếc xe GMC đã hy sinh ở đây khi trúng mìn của địch. Chính tôi và một số anh em đồng đội khác đã chôn cất các anh em vừa hy sinh tại Ngã ba này (nằm trên địa phận xã Tân Lập, huyện Phú Giáo, Bình Dương)”. Chiến tranh kết thúc, cảnh vật nơi đây đã thay đổi. Ngã ba Cây Cầy giờ đây đã không còn vết tích, thay vào đó là rừng cao su bạt ngàn. Thế nhưng anh Chính, một cựu chiến binh ở địa phương vẫn còn nhớ và dẫn mọi người đến bãi cỏ, chỉ chính xác nơi chôn cất các anh em. Và địa phương đã khai quật đưa hài cốt các chiến sĩ về Nghĩa trang Liệt sĩ Đồng Xoài. 4/8 người đã có bia ghi tên họ, còn 4 người chưa xác định được tên. Anh Đường nói thêm: “Đêm đó, chúng tôi an táng các anh trong ánh pháo sáng cầm canh của địch nên không bỏ được lọ penicillin ghi tên tuổi, đơn vị, quê quán”.

Đồng chí Nguyễn Ngọc Hân, nhân viên quân nhu Đoàn 814 ở Cánh 1 cho biết: “Cũng tại nơi này, chiếc xe chở gạo và anh chị em về họp chi bộ cũng bị địch phục kích bắn cháy. Nhiều anh chị em trên xe đã hy sinh...”.

Sau hơn 40 năm, qua bao nhiêu biến cố, thăng trầm của lịch sử, của bản thân nhưng Trần Ngọc Phượng vẫn còn may mắn nhận lại được bản chép tay thơ trên giấy pơ luya viết vội của chính mình từ người đồng đội Đỗ Thanh Hà. Kỷ vật tinh thần mà anh cố gìn giữ cẩn thận cho đến ngày hôm nay.

Cầm trên tay bài thơ anh chép trên giấy đã ngã màu thời gian mới thấy được tình yêu thơ và sự trân quý đặc biệt của người chiến sĩ Trần Ngọc Phượng dành cho bạn bè, đồng chí, đồng đội của mình. Càng đáng quý hơn nữa là người đồng đội Đỗ Thanh Hà vẫn gìn giữ cẩn thận bài thơ chép tay của bạn trong mấy mươi năm và trao lại tận tay cho chính tác giả.

Nhà thơ nhận ra cái chân lý sâu xa trong những điều giản đơn, bình dị, gần gũi, ấm áp, nghĩa tình từ cuộc sống bằng cảm quan riêng của người giàu sự trải nghiệm.

Giờ đây, sau gần 50 năm đất nước hòa bình, những người may mắn như Trần Ngọc Phượng vẫn còn sống đó là điều vô cùng hạnh phúc. Ngày họp mặt Sư đoàn, bao ký ức thuở nào lại ùa về, nhà thơ Trần Ngọc Phượng hồi tưởng: Hồi ấy lính tụi mình trẻ lắm/ Vượt Trường Sơn sốt rét xanh rờn/ Vào sư đoàn mang tên lạ lẫm/ Công trường 5, đất đỏ miền Đông// Núi Mây Tàu lá reo suối hát/ Buổi xuất quân đánh Võ Đắc, Ông Đồn/ Đêm rừng Lá nghe chân voi rậm rịch/ Tiếng pháo bầy, bom tọa độ nổ dồn// Ngày giặc càn đói quay đói quắt/ Hái măng le, đào củ chụp thay cơm/ Bên miệng hầm võng mắc chung một cọc/ Điếu thuốc rê chia nhau hút xoay vòng// Rồi đến trận Long Tân, Núi Đất/ Đường trượt trơn úp lật bàn chân/ Tiểu đoàn mình vơi đi gần hết/ Xác đến nay đồng đội vẫn đang tìm.

Những năm tháng gian lao mà hào hùng ấy đã trở thành niềm tin yêu bất diệt cho những người may mắn còn sống đến hôm nay. Anh trân trọng, kính phục và dành tình yêu thương vô hạn với những người đã khuất.

Trần Ngọc Phượng không giấu nổi những cảm xúc nghẹn ngào khi nghĩ về những người đồng chí, đồng đội của mình đã ngã xuống ở khắp các chiến trường. Sau mấy mươi năm đất nước hòa bình nhưng có người đến hiện tại vẫn chưa tìm được hài cốt. Đó cũng chính là nỗi đau đến khôn cùng của những ruột thịt và cả những người đồng chí, đồng đội như anh.

Sau ngày đất nước hòa bình, dù bận nhiều công việc nhưng Trần Ngọc Phượng vẫn dành thời gian để làm thơ, viết văn. Anh xem đó như là thú vui tao nhã, là sự tri ân với bạn bè, đồng chí, đồng đội một thời khói lửa... Và nhất là từ lúc nghỉ hưu đến giờ, Trần Ngọc Phượng có nhiều thời gian hơn để anh ngẫm ngợi, suy tư và cho ra đời những tác phẩm mới. Trần Ngọc Phượng có dịp thủ thỉ, tâm tình, chuyện trò, giãi bày những nỗi niềm sâu kín của lòng mình, thế hệ mình về một thời đã qua và cả những điều đáng nói hôm nay.

Năm tháng cứ trôi đi, năm tháng khác lại về; những ngày tháng cũ và cả những tháng năm của hiện tại, của tương lai... có điều gì đó giăng mắc, có điều gì đó làm cho Trần Ngọc Phượng rưng rưng:

Tháng Bảy/ Tri ân/ Những người đã mất/ Nhớ bạn xưa/ Đói rừng quay quắt/ Mâm cỗ cao đầy/ Gọi nhau về họp mặt/ Những linh hồn/ Uẩn khuất bốn phương/ Hãy về đây/ Phán xét/ Bao dung (Tháng Bảy).

Điều đặc biệt ở Trần Ngọc Phượng là anh làm thơ từ những năm tháng tuổi trẻ, ấn tượng và đáng trân trọng là anh ghi lại trực tiếp những cảm xúc, suy ngẫm thành thực ngay ở chiến trường. Nhưng mãi đến lúc nghỉ hưu, Trần Ngọc Phượng mới chính thức công bố các sáng tác của mình.

Cho đến thời điểm này, Trần Ngọc Phượng đã in 5 tập thơ (Vầng trăng ký ức, Nắng và Gió, Hồn tóc, Tiếng vọng, Sóng đời) và 1 tập Ký - Tản văn (Tìm dấu chân xưa).

Xin giới thiệu 2 bài thơ Ngã ba Cây CầyDốc Năm Cua được Trần Ngọc Phượng viết vào năm 1973, 1974.
 

Ngã ba Cây Cầy

Tặng đồng đội  Đoàn vận tải 814
 

Đường phía trước qua ngã ba này

Cứ yên tâm có cây cầy chỉ lối

Cành tán xòe như bàn tay vẫy gọi

Lòng bồi hồi nghe tiếng lá reo

 

Vào chiến dịch quân nối theo nhau

Đường vận chuyển ầm ầm thác đổ

Cái ngã ba là nơi gặp gỡ

Những bàn chân mang bụi đất trăm miền

 

Đã bao lần xe ta vượt lên

Nơi trọng điểm pháo bầy bom giội

Thương thân cây máu tuôn nhựa xối

Vẫn hiên ngang đứng vững giữa trời

 

Bao buồn vui trên chặng đường dài

Ta lấy nơi đây làm điểm mốc

Bao nét mặt lầm lỳ gan góc

Sáng bừng lên trong chớp lửa chập chờn

 

Dù nơi đây cây cỏ chẳng còn

Cái ngã ba không bao giờ đổi hướng

Khi tim ta đỏ hồng máu nóng

Lửa chiến công giục giã vòng quay

 

Đêm tiền phương lấp lánh sao mai

Có phải mắt em nhìn anh đấy

Cả hậu phương dồn trong tay lái

Anh sẽ đi tới đích đưa hàng

 

Qua đây rồi thấy đất mở mênh mông

Hạnh phúc em ơi! Ta đã thắng

Từ ngã ba đầu làng em đưa tiễn

Anh đã đi giữ trọn niềm tin

 

Anh đã cùng đất nước đi lên

Trong cuộc đời có trăm ngàn bước ngoặt

Em biết không? Mùa xuân đang hát

Từ ngã ba này đi tới tương lai.

1973

 

Dốc Năm Cua

Tặng anh em Đồng đội Đại đội vận tải Đoàn 814 - B2
 

Nào xong chưa

Ta vượt Dốc Năm Cua

Hơi thuốc cuối sáng mặt

người bình thản

dốc dựng đứng 

che vầng trăng sáng

Xe ta vào khoảng tối đêm trăng

Hồi hộp rồi sẽ qua nhanh

Đừng ngợp mắt

trước độ cao chót vót

Khi xe vào cua một

Máy reo ta hiểu sức mình hơn

 

Mới cua đầu mà sao chênh vênh

Xe mấy lần leo lên trượt xuống

Ánh đèn quét

trên vũng lầy loang loáng

Vết xe ai tụt dốc còn hằn

 

Cua Hai chẳng kém gian nan

Nhưng quen rồi

sẽ không khó nữa

Bàn tay anh lái xe như múa

Qua khung sàng

nhảy nhót những hạt sao

Có gì yên đâu?

Cái yên tĩnh trong nhịp tim ta đó

 

Khi xe nghiêng qua miệng

hố bom nham nhở

Khoảng cách hai vực sâu

là sự sống con đường

Từ trong đêm mênh mông

Thơ bật sáng trăm ngàn ý đẹp

 

Còn anh lái xe

Chỉ nhìn lên phía trước

 

Nơi những bánh xe

tự tin gan góc

Đang lăn qua điểm

chạm chí anh hùng

Trên đỉnh đầu

thoáng ánh trăng soi

 

Qua Cua Ba rồi

xin đừng sốt ruột

Cơn gió lạnh kéo dài đỉnh dốc

Tỉnh táo xe ơi!

Từng nấc bám dần lên

 

Cua Bốn, Cua Năm

Vòng ngoặt sát liền

Nhớ chỗ này, tăng ga sang số

Xe chồm lên dập dồn hơi thở

Như tung mình

                     trong tư thế xung phong

 

Chỉ chút nữa thôi

Niềm vui như ánh trăng rực rỡ

Sẽ ùa ra từ ánh mắt thâm quầng

 

Đất quê ta đèo dốc chon von

Đường phía trước

                  bom cầy đạn cấy

Cánh hậu cần xòe ra rộng mãi

Từ con đường vận chuyển

                             Dốc Năm Cua

                                 11/ 1974

Bài viết liên quan

Xem thêm
Hạt bụi lênh đênh – Từ đất Ý hóa kiếp thân thương dưới trời nam
Rơi ra từ căn phòng bài trí trang trọng của một tòa lâu đài cổ kính. “HẠT BỤI” kia đã chọn kiếp “LÊNH ĐÊNH” để rồi một ngày lưu dấu hồn trần nơi “quê người đất khách”. Hẳn là trong sự lựa chọn “nghịch thường” đó, hàm chứa một điều lớn lao địa cửu thiên trường nơi thân mệnh mong manh cánh chuồn. HẠT BỤI LÊNH ĐÊNH – ngay từ nhan đề… đã cho thấy sắc tính Á Đông thông dụng. Điều đặc biệt ở đây. Nó được viết bởi ELENA PUCILLO TRƯƠNG một nhà văn, một nhà Khoa học/ học giả Ngữ Văn của Tây Phương – Ý.
Xem thêm
Hoài niệm quê hương trong thơ Nguyễn Quang Thuyên
Nguyễn Quang Thuyên vốn là “dân xây dựng” - Giám đốc Vinaconex 3 Phú Thọ , quê Tam Nông, Phú Thọ. Ai từng gặp anh thời điểm hiện tại sẽ có thiện cảm bởi nụ cười có duyên, thân thiện. Ấy là Nguyễn Quang Thuyên của hôm nay, hay chí ít cũng là cảm nhận của tôi, rằng nhiều năm trước, gặp anh sẽ ngỡ anh khó tính, có sự bụi bặm phong trần của nghề nghiệp, có vẻ lạnh lùng và cảm giác khó gần. Anh là “dân ngoại đạo” nhưng đã 10 tập thơ được xuất bản. Tập thơ “Đưa em về quê nội”, NXB Hội Nhà văn 2024 của anh vừa đạt giải A của Hội Liên hiệp văn học nghệ thuật Phú Thọ (Giải thưởng hàng năm, năm 2024).
Xem thêm
Khoảng trống trong thơ đương đại
Sang giai đoạn thơ hiện đại, đặc biệt từ thời kỳ Đổi Mới (1986) đến nay, dưới ảnh hưởng của thơ tự do, thơ thị giác, thơ hậu hiện đại,… khoảng trống được vận dụng đa dạng hơn: là dấu hiệu cấu trúc, chiến lược gợi mở ý nghĩa, cũng là phương tiện giải cấu trúc câu chữ. Việc nhận diện, phân loại và giải thích cơ chế thẩm mỹ của khoảng trống vì vậy cần được đặt trong dòng chảy lịch sử rộng hơn – từ các quy phạm cổ điển đến những cách tân hiện đại – nhằm làm rõ lý do và cơ chế khiến “sự im lặng” trở thành tiếng nói quan trọng trong thơ.
Xem thêm
Triệu Kim Loan – nỗi mình bộc bạch cùng trăng
Một bài viết chân thành, giàu rung cảm của Ngô Minh Oanh về tập thơ Chữ gọi mùa trăng của Triệu Kim Loan.
Xem thêm
Phan Nhật Tiến - Thời cầm bút nói về thời cầm súng
Bài viết của Trần Hóa về tập thơ mới của Phan Nhật Tiến
Xem thêm
Nắng xanh pha hương giọt mật đầy
Văn Chương TP.HCM xin giới thiệu bài của Tuấn Trần.
Xem thêm
Cảm nhận tác phẩm “Mật ngữ đen trắng”
Bài viết của nhà thơ Huỳnh Tấn Bảo từ Bà Rịa - Vũng Tàu
Xem thêm
Nặng tình qua những miền quê
Bài viết tạo được chân dung “lữ khách thi ca” Vũ Trọng Thái
Xem thêm
Thế giới nữ tính đằm thắm và điệu nhạc tình yêu trong thơ Võ Thị Như Mai
“Nhớ anh nhiều bao nhiêu / Như thế nào là nhiều…” – những câu thơ giản dị mà đằm thắm ấy chính là nhịp điệu riêng của Võ Thị Như Mai.
Xem thêm
Bùi Minh Vũ - Buông neo hồn thơ vào biển đảo
Sau 2 tập thơ Lão ngư Kỳ Tân (2014), Biển và quê hương (2020) Bùi Minh Vũ cho ra mắt tập thơ Buông neo của (NXB Hội Nhà văn, 2024) gồm 113 bài thơ viết về đề tài biển đảo. Cảm hứng chung của tập thơ là tình cảm mến yêu, cảm phục, trăn trở và gắn bó tâm hồn với với biển đảo, với Trường Sa, Hoàng Sa, với những người lính đảo và người dân bám biển. Những tập thơ trước, Bùi Minh Vũ viết từ cảm xúc của một công dân yêu nước hướng về biển đảo với sự ngưỡng vọng. Ở tập thơ này, sau những chuyến vượt sóng ra Trường Sa, thăm đảo chìm đảo nổi, nhà thơ đã “Buông neo” hồn thơ vào biển đảo của Tổ quốc. Bài đầu của tập thơ đã thể hiện điều đó: Sóng ngọt như hoa trái lững lờ thè chiếc lưỡi/Bình minh trườn qua con chữ/Bài thơ quyết liệt buông neo/Như cột mốc đứng thẳng (Buông neo).
Xem thêm
“Chữ gọi mùa trăng” – Những thao thức của người đàn bà yêu chữ
Tại buổi ra mắt tập thơ Chữ gọi mùa trăng (23/9/2025), nhà thơ Hương Thu không có mặt, nhưng sau đó đã gửi đến một bài viết nhiều cảm xúc.
Xem thêm
Nỗi buồn đẹp qua ca khúc “Bài Thánh ca buồn”
Bài Thánh ca buồn nhưng không buồn theo lẽ thường, nỗi buồn ấy đẹp và chẳng hề mong manh, rất có thể khi nghe câu này, nhiều người không đồng cảm. Vâng, đó cũng là lẽ bình thường vì tiếp nhận văn học lý giải chuyện cảm nhận tác phẩm văn học hoặc nghệ thuật còn phụ thuộc nhiều yếu tố, trong đó có yếu tố sở thích. Và, tôi yêu thích Bài Thánh ca buồn, cả lời thơ (ca từ) cùng nhạc điệu.
Xem thêm
Viết cho “Khúc nhen chiều”– vệt khói dĩ vãng đậm màu thực tại
Khúc nhen chiều không chỉ là tập thơ đẫm màu khói sương mà còn là cuộc “truy vấn” không ngừng của Vũ Xuân Hương với chính mình và đời sống.
Xem thêm
Nguyễn Thị Thúy Hạnh - Hành trình chữ đến thế giới thơ
Hành trình thơ của Nguyễn Thị Thúy Hạnh trước hết khẳng định một tinh thần hiện sinh rõ nét. Ở đó, con người – đặc biệt là người nữ – luôn hiện diện trong trạng thái bất an, tổn thương, đồng thời mang khát vọng vượt thoát và kiếm tìm hạnh phúc. Chữ trở thành nơi lưu trú của nỗi cô đơn, đồng thời là phương tiện giúp nhân vật trữ tình phục sinh và tiếp tục hiện hữu trong một thế giới nhiều biến động, đổ vỡ.
Xem thêm
Lòng Mẹ - Mạch nguồn của “Chữ gọi mùa trăng”
Bằng trái tim giàu cảm thông, nhà thơ Phan Thanh Tâm – tác giả của 7 tập truyện ngắn và thơ thiếu nhi – đã tìm thấy ở Chữ gọi mùa trăng hình tượng người Mẹ vừa đời thường, vừa thiêng liêng.
Xem thêm
“Lời ru bão giông” – Từ cảm nhận đến vần thơ tri âm
Tập thơ Lời ru bão giông của Trần Hóa mở ra 59 câu chuyện đời đầy mất mát nhưng vẫn chan chứa ánh sáng nhân văn, niềm tin và tình yêu thương.
Xem thêm
Đến với bài thơ hay: “Chiều Ải Bắc tìm em”
Anh vẫn như nghe trong đá núi/ Âm vang rầm rập bước quân hành/ Anh vẫn như nhận ra nụ cười em/ Trong sắc hoa đào xứ sở…
Xem thêm
“Hai vệt nắng chiều” và cuộc ra ngoài tử biệt sinh ly
Với “Hai vệt nắng chiều”, Xuân Trường như đang cố níu giữ những mảng hồi quang và ông đã như thoát khỏi mình, thoát khỏi những rào cản thế tục để trải hết lòng mình, đặng làm tròn chức phận của một thi sĩ
Xem thêm
Trần Nguyệt Ánh với tập thơ Vọng núi
Theo dõi tình hình văn học mấy năm gần đây, thấy trong các nhà thơ trẻ Đăk Lăk, Trần Nguyệt Ánh có niềm đam mê, sự nỗ lực sáng tạo và tình yêu tha thiết với thơ. Chị viết đều tay, có nhiều tác phẩm thơ hay. Hành trình sáng tạo của Nguyệt Ánh cũng là hành trình tìm kiếm, khám phá, đào sâu vào bản ngã để khẳng định cái “tôi” đa tình, đa đoan và định hình một cá tính sáng tạo. Nhân Ngày Sách Việt Nam, 21/ 4/ 2022, tại Đường Sách thành phố Buôn Ma Thuột, nhà thơ Trần Nguyệt Ánh đã giới thiệu với bạn đọc hai tập thơ mới xuất bản: Miền gió say (NXB Hội Nhà văn, 2021) và Vọng núi (NXB Hội Nhà văn, 2022). Vọng núi là tập thơ thứ ba của Nguyệt Ánh, gồm 132 bài thơ 1 - 2 - 3, thể hiện nỗ lực đổi mới, trải nghiệm và sáng tạo của nhà thơ cả về nội dung cảm hứng cũng như tư duy nghệ thuật.
Xem thêm
Trúc Linh lan, nhà thơ của những thân phận đàn bà đa truân miền sông nước
Thơ ca - một thế giới thi ảnh đầy ma lực - bên cạnh sự truyền cảm sâu xa, thơ chính là sợi dây thần vô hình đầy linh động, kéo con người đứng lên từ bờ vực của vô vọng, khổ đau. Cái lạ kỳ của kẻ ăn thơ uống chữ là dù ở những khúc quanh nào của cuộc đời, họ cũng có thể tìm được một hướng đi. Dù trời có đổ lửa thì họ vẫn từ tốn tìm được cho mình một bóng râm. Và nhà thơ, không cần khua chiên gõ trống, họ lặng lẽ xới đất trồng hoa cho khu vườn nghệ thuật đầy giá trị nhân sinh của mình.
Xem thêm